Di tích lịch sử văn hoá Đức Thọ – những nét khởi thảo
Đức Thọ là mảnh đất địa linh nhân kiệt, giàu truyền thống văn hoá và học hành khoa bảng là quê hương của biết bao học giả, bao bậc hiền tài có công với dân với nước. Nằm ở phía Bắc của tỉnh Hà Tĩnh, trong suốt trường kỳ của lịch sử, huyện Đức Thọ ngày nay đã nhiều lần thay đổi về tên gọi và địa danh. Từ thửa Hùng Vương dựng nước trải qua các thời Tần (246 – 207 TCN), Hán (206 TCN – 220 SCN), Ngô (thế kỷ III), Tấn (thế kỷ III – V), Đức Thọ là vùng đất thuộc huyện Cửu Đức. Thuộc các quận Cửu Châu, Hoan Châu, Nam Đức vào thời nhà Lương (thời Nam Bắc triều 420 – 589), nhà Tuỳ (581 – 619), nhà Đường (681 – 907). Bước sang thời kỳ tự chủ (thời Lý, Trần) Đức Thọ thuộc Phủ /Trấn Nghệ An. Theo cuốn “Nghệ An ký” và “Yên Hội thôn chí” của nhà thơ học giả Bùi Dương Lịch thì: “La Sơn thời Trần gọi là Chi La, thời Minh củng gọi như thế. Thời Lê Sơ đổi là La Giang, đến đời Trung Hưng để tránh tên huý chúa Trịnh Giang nên đổi tên thành La Sơn” .
Thời Nguyễn năm Minh Mệnh thứ 3 (1822), đổi phủ Đức Quang thành phủ Đức Thọ và địa danh Đức Thọ có từ đó đến nay.
Nằm ở trung tâm của xứ Nghệ, châu thổ của dòng sông Lam, sông La, được bao bọc bởi những dãy núi nổi tiếng như Hồng Lĩnh, Thiên Nhẫn và Trà Sơn đã tạo cho Đức Thọ nhiều danh thắng nên thơ hùng vỹ. Từ xưa Đức Thọ đã nổi tiếng là mảnh mầu mỡ, khí hậu ôn hoà, phong tục thuần hậu. Con người hiếu nghĩa tiết tháo, anh dũng kiên cường, giàu truyền thống yêu nước và học hành khoa bảng. Những yếu tố đó đã tạo nên một truyền thống văn hoá đặc sắc của vùng đất này.
Thiên nhiên và con người Đức Thọ, trong suốt quá trình phát triển của lịch sử đã tạo nên một vùng quê hội tụ nhiều di tích lịch sử văn hoá và danh lam thắng cảnh với đầy đủ các loại hình di tích.
Trên bước đường hành hương tìm về cội nguồn lịch sử quê hương, dân tộc. Bước chân qua cầu Đò Trai (nơi giáp ranh giữa thị xã Hồng Lĩnh và huyện Đức Thọ), soi mình bên dòng sông Bán Thuý (còn gọi là kênh nhà Lê), thấp thoáng dưới bóng tán lá những cây đa cổ thụ là đền làng Gia Thịnh xã Đức Thịnh. Đây là một di tích lịch sử văn hoá cổ được xây dựng vào thời Lê Trung Hưng (khoảng thế kỷ XVIII), đời vua Lê Hiển Tông (1740 – 1780). Ngôi đền có hai toà thượng và hạ điện, là nơi thờ tự Tam Lang Đại Vương. Người con trai thứ ba của vua Hùng được sai làm Thần ở sông Bạch Hạc. Theo tín ngưỡng thờ thuỷ thần (thờ rắn, rồng) một trong những tục thờ phổ biến ở nước ta. Trải qua các triều đại, với 9 bản sắc phong còn lưu giữ được thì đền Gia Thịnh trước đây đã từng là một ngôi đền lớn thờ Tam Lang Đại Vương. Một vị Thần mà đến đời Khải Định đã phong lên đến Thượng đẳng Thần (một vị Thần mới được phong lần đầu thì củng thường chỉ là Hạ đẳng Thần, Thượng đẳng Thần nếu là nhân thần thì củng phải là bậc đế vương như An Dương Vương, Triệu Quang Phục… hoặc là tướng lĩnh lừng danh như Uy Minh Vương Lý Nhật Quang – thờ ở đền Quả Sơn, Nghệ An). Được ban rất nhiều mỹ tự và hết lời ngợi ca: “Đức ngài là đấng minh triết dũng lược…anh hùng quả đoán…trên thông tỏ cơ trời mà dẹp được loạn, trừ được tai ương bảo vệ muôn dân …khai dẫn cho đời, phò trợ nước nhà được thái bình…” (sắc Cảnh Hưng), hoặc: “Đức ngài từ xưa tới nay có công hộ quốc bảo dân nổi tiếng linh thiêng cầu ứng…” (sắc Đồng Khánh) .
Trên địa bàn xã Đức Thịnh còn một ngôi đền nổi tiếng khác là đền thờ Ngô Thị Ngọc Dao (còn gọi là đền Đồng Cần). Bà là Quang Phục Hoàng Thái Hậu, người làng Đông Bảng, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hoá. Thửa nhỏ nổi tiếng là người con gái xinh đẹp, nết na hiền thục được đưa vào làm cung phi đời vua Lê Thái Tôn. Sinh ra hoàng tử Lê Tư Thành sau lên ngôi vua lấy hiệu là Quang Thuận rồi Hồng Đức, là một vị vua xuất chúng trong lịch sử thời kỳ quân chủ ở nước ta. Năm 1471, giặc Chiêm xâm lấn bờ cõi Đại Việt. Nhà vua đã tự mình ngự giá thân chinh thống lĩnh ba quân đi đánh giặc có Thái Hậu đi cùng. Chỉ trong một thời gian ngắn quân giặc bị đánh tan. Trên đường trở về kinh thành Thăng Long, lúc đi ngang qua xã Quang Chiêm tổng Hoa Lâm (Đức Thịnh ngày nay) thì Thái Hậu mất. Thương tiếc bà, nhà vua đã sai người chôn cất tại Đồng Cần. Đồng thời để lại một số người thân thích và cấp 100 mẫu ruộng cho quan viên và dân làng Quang Chiêm để lo việc hương khói, thờ phụng hàng năm theo nghi thức quốc gia.
Toạ lạc giữa cánh đồngT, trong một khuôn viên rộng được bao bọc bởi nhiều cây cổ thụ quanh năm xanh tốt. Trong bảng lãng khói sương của những buổi trời chiều hai toà thượng và hạ điện của ngôi đền Đồng Cần uy nghiêm trầm mặc rêu phong cổ kính trông đẹp như một bức tranh thuỷ mặc.
Nằm về phía tây của xã Đức Thịnh là xã Thái Yên, một làng quê có nghề mộc nổi tiếng khắp cả nước còn có chùa Vĩnh Phúc và Đền Thánh Thợ. Chùa Vĩnh Phúc (Vĩnh Phúc thiền tự) Được xây dựng vào thời Hậu Lê (1428 – 1527), thế kỷ XV sau sự thiên di của mẹ con bà Hoàng hậu Bạch Ngọc cùng một số tôn thất nhà Trần đến ở vùng chân dãy núi Cốc và dãy núi Trà Sơn (vùng thượng của huyện Đức Thọ) khai hoang lập ấp với một lòng mộ phật đã góp phần thúc đẩy sự ra đời của rất nhiều ngôi chùa ở trong vùng trong giai đoạn này như: Chùa Am (Diên Quang tự), chùa Tiên Lữ, chùa Ân Quang, chùa Cổ Lộng, chùa Vền (Vạn Phúc tự), chùa Phượng Tường… Nằm ở trung tâm phật giáo phía Nam Đại Việt, chùa Vĩnh Phúc cùng với hệ thống tượng thờ và các giá trị tinh thần lớn lao chứa đựng trong đó như một minh chứng cho tư tưởng từ bi, hỉ xả, bác ái, cứu khổ, cứu nạn của đạo Phật thông qua Tứ diệu đế (khổ đế, nhân đế, diệt đế và đạo đế). Sức lan toả, sự dung hoà giữa đạo và đời đến đây được tiếp tục phát triển ở 1 vùng đất mới như một sự hoằng dương của Phật pháp.
Xét một cách bao quát, Vĩnh Phúc không phải là một ngôi chùa lớn bề thế gắn liền với danh lam thắng cảnh ở một vùng non nước hữu tình. Trong mặt bằng kiến trúc tổng thể, chùa còn thiếu vắng một số đơn nguyên kiến trúc như cổng tam quan, nhà bia, cột kinh, tháp, nhà tăng.v.v Nhưng điểm nổi bật ở chùa Vĩnh Phúc chính là hệ thống tượng và tranh phật được thờ tự ở trong chùa. Lớp tượng Thường Trụ Tam Thế Diệu Pháp Thân (thường gọi là tượng Tam Thế Phật) và lớp tượng Di Đà Tam Tôn cùng một số tượng ở hai bàn thờ hai bên, ở nhà bái đường củng như các bức tranh Phật được thờ ở trong chùa. Các đức Phật này đều có tóc kết xoắn ốc, tay kết tam muội, ngồi kiết già lộ hai bàn chân. Nếu kẻ một đường tròn theo hình của Đức Phật rồi kẻ một đường trung tâm trên đỉnh xuống chúng ta dễ dàng nhận thấy trong trong từng nữa này thì phần lớn nhất là lòng đùi. Nhưng nổi lên giữa lòng đùi trái là lòng bàn chân phải và ngược lại. Trong cách thức này hình khái quát tượng Đức phật đồng nhất với vòng tròn thái cực. Có nghĩa là vòng tròn chia đôi theo một đường hình chữ S cân đối để tạo thành lưỡng nghi tức âm – dương, thì ở phần lớn nhất ở dương – tức thái dương đã xuất hiện yếu tố âm và ngược lại. Đây chính là một bức hình đồ biểu hiện về nguyên lý thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái…khởi đầu của muôn loài. Vì vậy người ta còn gọi tượng ngồi kiết già toàn phần là kiểu ngồi âm – dương. Kiểu ngồi này có khả năng tập trung được tư tưởng vào những yếu nghĩa sâu xa của đạo lý. Đồng nhất với ý nghĩa của hoa sen để nói về âm – dương, lý – trí, phàm – thánh cùng một bản thể, một cội nguồn. Đây là cách ngồi viên mãn vượt qua mọi trở ngại thường tình của cỏi tục. Cách ngồi này còn gắn với việc khai mở các trung tâm lực chính trên cơ thể con người bằng hình tượng bông cúc nở mãn khai nơi trái tim. Tới đây luân xa A na ha ta được khai mở, tu sỹ đạt được phép Tha tâm thông, không cần hành động mà vẫn hiểu được tư tưởng của chúng sinh. Luân xa này khai mở khiến kẻ hành giả phát triển trí tuệ đến mức độ cao và đạt được thánh quả: Tứ đại vô lượng tâm (đại từ, đại bi, đại hỉ, đại xả).
Tóc phật xoắn ốc bao kín nhục kháo và cả đầu là biểu tượng nguồn phát sáng của phật pháp. Từng lọn tóc xoắn là biểu tượng của chử Thánh, như: Đức tự (tượng trưng cho đạo đức cao hơn hết), cát tường tự (tốt lành, minh bạch, rõ ràng hơn hết) và vạn tự (ngọn lửa tam muội làm tịnh tiến thiện căn, diệt trừ dục vọng). Tất cả những vẻ đẹp thiêng liêng của các cụm tóc xoắn hội tụ lại nhằm tạo cho bộ não minh mẫn đạt được khả năng về trí tuệ cao viễn, tiến tới sự giác ngộ.
Các Đức phật ở đây có tai lớn, đỉnh tai cao trên lông mày biểu hiện về quyền uy oai lực của nhà phật, dái tai dài nói lên sự phúc hậu, đại từ, đại bi. Lông mày cong gọi là nguyệt mi tạo nên một vẽ đẹp thánh thiện, hội tụ các dòng hạnh phúc. Đầu lông mày chảy xuống sống mũi, đuôi lông mày che hết mắt biểu hiện về sự trọn vẹn không vướng mắc cuộc đời. Mắt Đức phật khép hờ nhìn xuống hội vào đỉnh mũi như để tập trung tư tưởng trí lực nhằm soi rọi nội quan, tất cả để diệt trừ ma tâm chống sự tà loạn. Mũi Đức phật đầy đặn cân phân ấm áp, sống mũi cao, lỗ mũi tròn, đỉnh mũi không hếch, không khoằm biểu hiện tư thế của người chính nhân quân tử với súc mạnh và trí tuệ từ bi cao hơn hết. Các yếu tố về tóc, tai, mắt mũi đều hướng tới một mục đích là cứu vớt chúng sinh đau khổ khỏi mọi kiếp trầm luân và được hội tụ vào miệng pho tượng. Tượng phật ở đây miệng tương đối nhỏ, phảng phất một nụ cười nhẹ (nụ cười hàm tiếu), thể hiện sự đồng cảm giữa Đức phật và chúng sinh.
Áo cà sa của tượng phật (còn gọi là tăng già lê, phúc điền y, giải thoát phục…) có màu vàng là màu đã giải thoát xa lìa cõi tục ở cuộc đời (còn các tượng có màu vàng ở mặt và chân tay biểu hiện vị phật đó đã ở cõi niết bàn ít gắn với trần gian). Áo cà sa màu nâu giúp cho kẻ hành giả chống được sự kiêu căng ngã mạn để lấy nhẫn làm đầu. áo cà sa chính là thanh y (tâm trong sáng), tỉnh y (tâm yên tỉnh), và nhẫn nhục y (chống lại mọi dục vọng của tham, sân, si, ái, ố, hỉ, nộ), nhờ đó mà mọi sự đều trong sáng tốt lành để bước vào kiếp tu, hướng tới thiện căn và tịnh tiến trong dòng chảy của đạo pháp.
Hội tụ tất cả những yếu nghĩa về đầu, mặt và trang phục như trên thì có thể nói rằng kiếp tu này đã đạt được quả niết bàn nên được ngồi trên toà sen.
Các pho tượng trong hậu cung và nhà bái đường chùa Vĩnh Phúc cùng rất nhiều tranh phật được tạo tácC, thể hiện với một trình độ nghệ thuật thẩm mỹ cao. Bên cạnh những đặc trưng của một pho tượng phật, các pho tượng này dưới đôi tay tài hoa của các nghệ nhân xưa đều toát lên cái phong thái, cốt cách thuần Việt, vừa uy nghi linh thiêng vừa gần gũi. Với màu sắc chủ đạo bằng các chất liệu dân gian truyền thống như: Màu vàng, màu xanh da trời và màu nâu đỏ. Hình ảnh các Đức phật ngồi trên toà sen (ngoại trừ một bức của Đường Tam Tạng) chùa Vĩnh Phúc được các hoạ sỹ thể hiện theo một lối vẽ phóng khoáng (lối vẽ phóng bút). ống tay áo rộng, bờ vai xuôi, tà áo dài lượn theo hình sóng, cánh hoa sen mềm mại cùng những đám tinh vân cách điệu bao quanh Đức phật là những nét đặc tả với nét vẽ mềm mại, uyển chuyển tinh tế, giàu tính nghệ thuật và xúc cảm thẩm mỹ cao.
Phần lớn các tượng phật chùa Vĩnh Phúc đều được tạc bằng gỗ mít (theo quan niệm nhà phật, mít là cây gỗ thiêng nơi hội tụ của phật, pháp và tăng). Ngoài những tư tưởng triết lý, nhân sinh quan thấm đẫm tư tưởng phật giáo thì mỗi một pho tượng, bức tranh ở đây còn là một công trình điêu khắc, mỹ thuật hoàn hảo mà các nghệ nhân nhân xưa đã gửi gắm bằng tất cả tâm hồn tình cảm và ước nguyện của mình. Trải qua bao sự biến thiên thăng trầm của lịch sử, dưới lớp bụi thời gian những tư tưởng cao cả của đạo phật vẫn sáng lấp lánh hướng tâm hồn, tình cảm con người tới những giá trị Chân – Thiện – Mỹ.
Đền Thánh thợ Thái Yên thờ tiên sư Lỗ Ban (ông tổ nghề mộc), đền nằm trên một mãnh đất cao ráo bằng phẳng ở đầu làng. Là một công trình kiến trúc nghệ thuật đẹp và khá đồ sộ, gồm có ba toà: Hạ, trung và thượng điện. Ngôi đền như một bảo tàng nghệ thuật điêu khắc gỗ, là dấu ấn bàn tay lao động của các nghệ nhân qua nhiều thế hệ của một làng mộc cổ truyền nổi tiếng.
Đặc trưng của nghệ thuật kiến trúc đền Thái Yên là kiến trúc đình, đền truyền thống từ bố cục không gian đến bài trí nội thất. Độc đáo và giá trị nhất là nghệ thuật điêu khắc chạm trổ bằng kỷ thuật chạm lộng và chạm bẹt. Từ kết cấu kiến trúc đến các hoạ tiết hoa văn như phù điêu, long kiệu, hương án, lư hương, bài vị, long ngai, tượng ông phỗng cùng các đồ tế khí như long đao, chân đèn, kiếm, đại đao… đến các mảng chạm trổ trên xà cổn, đầu kẻ, hòn kê, ván thưng …với các đề tài tứ linh (long, ly, quy, phương), mây, lữa, hoa, lá … đều được chạm kín nhưng nhìn không rối mắt. Nét chạm chắc khoẻ mà không thô, phong khoáng bay bướm mà không cẩu thả. Trong tổng thể kiến trúc thỉnh thoảng chúng ta bắt gặp những khoảng trống đó là những chổ “nghỉ mắt”, là khoảng trống “hữu thức”. Điều đó càng cho thấy tư duy thẩm mỹ cao của các nghệ nhân làng mộc cổ truyền danh tiếng.
Ngoài kỷ thuật bào ghép, tạo dáng chắc khoẻ của phong cách nghề mộc Thái Yên, các chi tiết chạm trổ trong ngôi dền đều lấy chủ đề từ các điển tích xưa với phong cách dân gian rõ nét. Hổ giắt răng, rồng đau mắt, tích ông Biểu Thức, tích Thuấn canh lịch sơn, Hứa Do tẩy nhi, nhị thập tứ hiếu, chàng trai đi tìm măng trái mùa ngồi bên bụi tre khóc để măng mọc lên hái về dâng cha mẹ ăn … Ngoài ra còn rất nhiều đề tài hoa lá như hoa cúc, hoa mua, hoa sen, hay tích tam điểm (ba loài cây: Đào, lê, lựu). Đề tài động vật ngoài tứ linh còn có long mã, cá chép, hươu nai, chim hạc … Đồ tế khí trong nhà thờ có nhiều loại hình với số lượng và giá trị lớn. Đó là hai quả chuông đúc nổi chữ Thái Yên, cho đến các bộ long đao, bát bảo, bửu tượng, quy hạc, các lư hương chạm bằng gỗ quý, các bộ long kiện, long ngai, bài vị, kiếm, mũ, hia của thần … tất cả đều thể hiện rỏ tài năng và tư duy thẩm mỹ của các nghệ nhân qua nhiều thế hệ làng mộc Thái Yên.
Ngoài nghệ thuật chạm trổ điêu khắc điêu luyện, đền Thái Yên còn là nơi bảo lưu nghệ thuật sơn then, mạ vàng các bức chạm và nghệ thuật vẽ sơn trên ván gỗ ở trần nhà, các bức bình phong và các tấm ván cửa. Đền Thái Yên xứng đáng là một bảo tàng điêu khắc chạm trổ cổ vật nổi tiếng đất Hồng Lam.
Nằm ở phía đông của huyện Đức Thọ, xã Yên Hồ thời Trần có tên là Bà Hồ, đời Lê gọi là Bình Hồ. Thời Tây Sơn vào khoảng những năm 1789 – 1790 để tránh tên huý của vua Quang Trung (Nguyễn Huệ tên thật là Nguyễn Văn Bình) nên đổi từ Bình Hồ thành Yên Hồ. Là kinh đô của nhà Hậu Trần (1407 – 1413), Yên Hồ còn là đất học hành khoa bảng vào loại sớm nhất ở Hà Tĩnh. Từ thế kỷ thứ XIII đã có Đào Tiêu đậu trạng nguyên năm ất hợi đời trần Thánh Tông, niên hiệu Bảo Phù thứ 3 (1275) và Đoàn Xuân Lôi đậu khôi nguyên năm Giáp tý đời Trần Phế Đế, niên hiệu Xương Phù thứ 8 (1383). Tiếp đó có Nguyễn Biểu đậu Thái học sinh vào cuối thế kỷ thứ XIV, làm quan đến Điện tiền Ngự sử thời Hậu Trần. Thời Lê – Nguyễn, Yên Hồ lại có nhiều người đậu đại khoa như Tiến sỹ Phạm Nại (1462 - ?) khoa Đinh mùi (1487), Tiến sỹ Nguyễn Phong (1559 - ?) khoa Quý mùi và Tiến sỹ Lê Đắc Toàn (1622 – 1675) khoa Nhâm thìn (1652).
Nằm khiêm nhường bên cạnh con đường liên thôn nối liền quốc lộ 8A và đê La Giang vắt ngang qua cánh đồng xã Yên Hồ là nhà thờ Lê Đắc Toàn. Nơi thờ tự vong linh tiên tổ dòng họ Lê Đắc và Tam giáp đồng Tiến sỹ xuất thân Lê Đắc Toàn. Ông tên thật là Lê Vĩnh Đích, sinh năm Nhâm Tuất, đời vua Lê Thần Tông (lần thứ nhất), niên hiệu Vĩnh Tộ năm thứ 4 (1622). Thân sinh là cụ Lê Vĩnh Mệnh, thân mẫu là bà Lương Thị Lữ xã Bình Hồ, huyện la Sơn. Nay là xã Yên Hồ, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
Vốn có tư chất thông minh lại giàu nghị lực, mặc dầu gia cảnh gặp nhiều khó khăn nhưng ông vẫn kiên trì học tập và đậu Sinh đồ tại kỳ thi hương năm Kỷ Sửu đời vua Lê Chân Tông (1634 – 1649), niên hiệu Phúc Thái lần thứ 16 (1649). Đến năm Canh Mão đời vua Lê Thần Tông (1649 – 1662), niên hiệu Khánh Đức năm thứ 3 (1651) đỗ đầu kỳ thi hương và đến năm Nhâm Thìn (1652), thì ông đậu Tam giáp đồng Tiến sỹ xuất thân. Khi đó ông tròn 31 tuổi.
Sinh ra và lớn lên trong thời tao loạn, bên cạnh ngôi vua (là bậc chí tôn theo quan điểm của nho gia), còn có phủ chúa cùng sự phân tranh về quyền lực và lãnh thổ giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài làm đảo điên mọi trật tự trong một xã hội được xây dựng trên nền tảng của Nho gia đã có hàng ngàn năm tồn tại và phát triển. Lê Đắc Toàn làm quan trải qua ba đời vua thời Hậu Lê là: Lê Thần Tông (1649 – 1662 lần thứ 2), Lê Huyền Tông (1663 – 1671) và Lê Gia Tông (1672 – 1675). Lần lượt giữ các chức: Cẩn sự lang giám sát ngự sử bậc dưới đạo Hải Dương. Chỉ một năm sau ông được phong tước Nam và thăng lên chức Thanh Hoá hiến sát sứ ti bậc dưới. Đến năm Cảnh Trị thứ 2 (1664), sau khi mãn tang mẹ Lê Đắc Toàn được thăng Đô cấp sự trung Binh khoa. Năm Cảnh Trị thứ 7 (1669) ông được bổ nhiệm làm Thừa chính sứ ti, Tham chính phúc khê nam, cấp bậc Lang trung Hộ khoa, đồng thời được phong lên tước tử. Đến năm Dương Đức thứ nhất, ông lại được phong chức Đô ngự sử đài kiêm Đô ngự sử chức. Như vậy, sau 21 năm làm quan dù ở cương vị nào dù là Giám sát ngự sử bậc dưới ở một đạo hay Đô cấp sự trung của một khoa và Thiêm đô ngự sử hoặc đi sứ sang Trung Quốc (thời Minh), ông luôn được nhà vua và triều thần trọng dụng, đánh giá cao về tài năng và đức độ là: “…người có tâm thuật, tài năng giúp việc”, “hoàn thành tốt nhiệm vụ…” nên sau khi ông mất triều đình thương xót truy tặng phong cho ông chức Tả thị lang Bộ công và được các vua đời nhà Nguyễn phong lên hàng Phúc thần (từ Hạ đẳng thần lên Trung đẳng thần), giao cho xã Yên Hồ bốn mùa thờ phụng theo nghi thức quốc gia.
Nhà thờ có mặt bằng kiến trúc hình chữ đinh ( ), gồm hai toà thượng và hạ điện. Nơi đây còn lưu giữ được 12 bản sắc phong cổ và một bài thơ bằng chữ hán khắc gỗ của Hoàng Giáp Hồ Ngọc Phong, nội dung như sau:
Phiên âm: “Tư lưỡng khôi nguyên hậu
Bình Hồ tứ khí chung
Đằng vân đăng giáp đệ
Cựu vũ điển cừ hung
Nam hưởng ôn nhân đạt
Bắc trì cống khoản thông
Đại danh thuỳ khẩn ngoại
Kình tiết trọng triều trung
Mông tặng song thân hiển
Lưu khanh hậu duệ hồng
Thiên thu hương hoả tự
Nghiễm nhược kiếm di dung
Ngọc Phong Hồ Hoàng Giáp phụng toản
Tự Đức Tân tỵ trùng thuyên”
(Dịch nghĩa: Thi hương và thi hội đều đỗ đầu
Bình Hồ là nơi hội tụ tốt lành
Văn: Đứng ở bậc thứ cao
Võ: Thao lược biết địch, biết ta
Việc trong nước (Nam) tinh thông
Đi sứ sang Bắc (nước Minh) giỏi giang
Tiếng tăm ra tận mãi ngoài
ở trong nước càng thêm trọng vọng
Trước là để biết ơn cha mẹ
Sau là lưu điều mừng lớn cho con cháu
Nghìn năm khói hương thờ phụng
Như thấy dung nhan nghiêm trang còn đó
Hoàng Giáp Hồ Ngọc Phong vâng soạn
Khắc lại năm Tân tỵ triều Tự Đức – 1881)
Toạ lạc trong trong vườn cây xanh tốt giữa trung tâm xã Yên Hồ là đền thờ Nghĩa vương Nguyễn Biểu, mà các sử sách xưa thường gọi là “miếu cổ Bình Hồ”. Về thân thế Nguyễn Biểu: Ông quê ở xã Bà Hồ, huyện Chi La, đỗ Thái học sinh đời Trần, đã từng theo giúp vua Trùng Quang nhà Hậu Trần từ những ngày đầu mới lên ngôi, tính tình thẳng thắn, dám nói sự thật nên được phong chức Điện tiền thị Ngự sử. Về cái chết của ông theo cuốn “Đại Việt sử ký toàn thư – quyển 4”, viết “Mùa hạ, tháng 4 năm Quý tỵ – 1413 bọn Trương Phụ nhà Minh đánh vào Nghệ An vua chạy vào Châu Hoá, sai đài quan là Nguyễn Biểu làm sứ cầu phong, mang sản vật địa phương đến Nghệ An. Trương Phụ giữ lại Biểu tức giận mắng rằng làm quân nhân nghĩa, đã hứa lập con cháu nhà Trần, lại đặt quận huyện, không chỉ cướp châu báu vàng bạc, lại còn giết hại dân sinh, thật là giặc tàn ngược, Phụ giận lắm đem giết”. Trong cuốn “Nghĩa sỹ truyện của Hoàng Trừng” chép việc này khá tỷ mỷ, trở thành một huyền thoại về tấm lòng trung quân ái quốc, bất khuất trước kẻ thù của ông “…khi Nguyễn Biểu lên đường vua Trùng Quang có bài thơ đưa tiễn, tỏ lòng tin cậy ở vị sứ giả của mình, và hy vọng “Việc nước một mai công ngõ vẹn, Gác lân muôn tiếng dõi lâu xa”. Nguyễn Biểu đã hoạ lại thơ vua khiêm tốn nói: “Hổ mình và thiếu tài chuyên đối”, nhưng củng tỏ bày lòng trung thành và quyết tâm “dịch lộ ba nghìn dặm ngại xa” . Tiện đường ông ghé về thăm nhà, bái yết tổ tiên, sắm sữa đồ lễ rồi mới sang Lam Thành. Đến dinh Trương Phụ bị hạch sách vặn hỏi, Nguyễn Biểu không đổi sắc mặt, đối đáp cứng cỏi, phụ tỏ ý nể, lưu lại đãi cơm. Khi nhìn thấy mâm cơm có chiếc đầu người luộc chín, biết Phụ định uy hiếp mình, ông thản nhiên nói: “A! người Nam lại được ăn đầu người Bắc”, rồi cầm đũa móc hai con mắt chấm tương ăn. Xong bữa tiệc kỳ quái này ông còn đọc bài thơ “Ăn cổ đầu người’. Trương Phụ hay tin cảm phục đối xử tử tế, rồi cho về. Nhân đó Phụ hỏi tên hàng thần Phan Liêu: “Nguyễn Biểu là người thế nào”. Liêu vốn là người có hiềm khích với ông, bèn nói: “Người ấy là hào kiệt ở An Nam, ngài muốn lấy nước Nam mà không có người này sao được”. Phụ sai người bắt ông lại nhằm mua chuộc, uy hiếp. Nhưng khi Nguyễn Biểu bị dẫn tới trước mặt Trương Phụ, hắn bắt ông lạy, ông vẫn đứng thẳng, không hề run sợ. Phụ mắng ông vô lễ, ông bèn vạch âm mưu và tội ác của giặc. Phụ tức giận sai quân đưa ông ra trói dưới chân cầu Yên Quốc (tức cầu Lam, một nhánh sông Lam chảy giữa hai làng Vệ Chánh và Quang Dụ xưa), cho nước lên dìm chết. Ông lấy móng tay vạch vào cột cầu tám chữ: “Thất nguyệt, sơ nhất nhật, Nguyễn Biểu tử” (ngày mồng một, tháng bảy, Nguyễn Biểu chết), tức ngày 28/7/1413. Nhưng ba ngày liền nước thuỷ triều không lên tới nơi, trong suốt ba ngày đó ông chửi giặc không ngớt. Phụ cho rằng ông được thần phù trợ, bèn sai bắt đưa về trước chùa Yên Quốc đánh chết. Mặc dù giết chết ông nhưng Trương Phụ vẫn khính phục nghĩa khí, bèn cho người đem thi hài ông về mai táng ở quê nhà. Trước đền thờ hiện nay còn có lăng mộ”.
Được tin Nguyễn Biểu mất vua Trùng Quang hết sức thương xót, sai làm văn dụ tế. Nhà sư chùa Yên Quốc củng bài văn làm lễ cầu siêu cho ông (hai bài này hiện nay vẫn còn, chép sau bài “nghĩa vương ký” lưu tại nhà thờ họ Nguyễn ở Yên Hồ). Đền hiện nay còn lưu hai tấm bia đá. Một tấm ghi thân thế sự nghiệp và bài minh ca tụng đề ngày mồng 2/5 năm Tự Đức thứ 28 (15/6/1875) do Cử nhân Hoàng Xuân Phong soạn văn bia. Tấm bia thứ hai do nhân dân hai thôn Nội Diên và Yên Phúc xã Yên Hồ dựng. Văn bia đề ngày 8/10 năm Tự Đức 30 (12/11/1877) do Cử nhân Lê Viết Huy nhuận sắc. Ngoài thân thế, sự nghiệp Nguyễn Biểu, nội dung tấm bia còn ghi rõ thời gian ông được phong tặng Thần vị và việc thờ tự qua các thời đại.
Thời Lê, đời vua Lê Thánh Tông, niên hiệu Hồng Đức, vua sai người lập miếu thờ Nghĩa sỹ ở Bình Hồ, ban ruộng tế và cho lấy dân trong sở tại một Lễ lang và hai Thừa tự, trông coi việc thờ cúng đồng thời giao cho Trấn quan mỗi năm một lần về tế lễ.
Về sau tuy không còn lệ “quốc tế”, nhưng hơn 300 năm qua nhân dân xã Yên Hồ vẫn luôn thờ phụng Nghĩa Vương như là một vị Thành Hoàng của làng. Ngôi đền được bảo vệ, trùng tu thường xuyên. Đến nay ngôi đền gồm ba toà nhà lợp ngói âm dương, lát gạch. Cổng vào đền là hai cột trụ biểu cao, phía trong có hai tấm bia đá. Trong ba toà đền, ngoài kiệu, hương án và nhiều đồ thờ tự khác còn rất nhiều biển gỗ khắc thơ “ngự chế” của Hoàng Trừng và nhiều đối liễn của nhân dân địa phương, quan viên và các nhà khoa bảng.
Ngôi đền đã trở thành một biểu tượng thiêng liêng của những người trung nghĩa “Văn phong năng khởi sỹ phu tâm” (nghe đến tiếng tăm của Ngài, lòng sỹ phu phải dấy động – Lê Lai Yến). Niềm tự hào qua nhiều thế hệ của người dân nơi đây.
Bên kia dòng sông Đò Hào thuộc xã Đức Vĩnh là đền thờ Chiêu Trưng, nơi thờ tự và tri ân Chiêu Trưng Đại Vương Lê Khôi, vị khai quốc công thần triều Lê. Ông là người cháu ruột của vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi), là một trong những vị danh tướng đầu tiên tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và đã lập được nhiều chiến công hiển hách. Sau khi khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi (1427), ông tiếp tục cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp trung hưng khôi phục đất nước, giữ yên bờ cõi, chăm lo đời sống của nhân dân.
Đền thờ chính và mộ phần của ông đặt tại núi Long Ngâm, dãy Nam Giới thuộc địa phận xã Thạch Bàn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1446, sau khi đi đánh Chiêm Thành thắng lợi trở về ông đã bị bệnh mất rồi được an táng tại đây. Triều đình và nhân dân thương tiếc xây dựng đền thờ, hàng năm đến ngày huý nhật của ông thì cử quan về tế lễ.
Năm Tân tỵ, niên hiệu Dương Hoà thứ 7 (16410, đời vua Lê Thần Tông, quan Hữu ty thấy đền nằm sát bờ biển, sóng to gió lớn bất thường có thể gây trở ngại cho việc tế lễ nên tâu xin nhà vua cho dời đến địa điểm mới ở địa phận thôn Nguyên Phúc xã Triều Khẩu (huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An), phía dưới Lam Thành để tiện cho việc tế lễ. Đền này về sau giao cho nhân dân ba thôn Phúc Xuyên, Quang Du và Hưng Phúc xã Triều Khẩu thờ phụng. Đến cuối thế kỷ thứ XIX, đất các làng Quang Dụ, Hưng Phúc bị xói lỡ xuống dòng sông Lam. Dân hai làng phải dời sang định cư ở bờ phía nam, lập làng và dựng lên một ngôi đền mới để thờ phụng. Đền Chiêu Trưng xã Đức Vĩnh hiện nay được lập nên từ đó.
Chiêu Trưng Đại Vương Lê KhôiC, sinh vào khoảng những năm cuối thế kỷ thứ XIV, tại làng Lam Sơn, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá. Ông là con của Lê Trừ (người anh trai thứ hai của Lê Lợi). Năm 1418, Lê Lợi tế cáo trời đất, phất cao ngọn cờ nghĩa chống quân xâm lược nhà Minh, “Lê Khôi là một trong những người đầu tiên đứng dưới ngọn cờ khởi nghĩa của Lê Lợi”, ông tham gia nhiều trận đánh lớn và lập được rất nhiều chiến công “mình đeo bên tả túi tên, bên hữu túi cung, theo vua hàng trận, công lao rực rỡ” (Lịch triều hiến chương loại chí – Phan Huy Chú). Đặc biệt trong hai trận quyết chiến chiến lược là trận Khả Lưu - Bồ ải và trận Xương Giang. Sách “Lịch triều hiến chương loại chí” chép: “…Bọn Lê Sát, Lê Lễ, Lê Vấn, Lê Nhân Chú, Lê Ngân…Lê Khôi tranh nhau lên phía trước phá quân giặc, chém đầu giặc không sao kể xiết. Thuyền giặc trôi ngổn ngang, xác chết đuối ngẹn tắc cả khúc sông, khí giới vất đầy cả rừng núi, bắt sống đô đốc Chu Kiệt, chém tướng tiên phong Hoàng Thành, bắt sống hàng ngàn tên giặc…”, với chiến thắng đó nghĩa quân đã tiêu diệt được một lực lượng lớn quân giặc, đẩy chúng vào thế bị động trên chiến trường. Trong trận đánh quân tiếp viện nhà Minh do An viễn hầu Liễu Thăng làm Tổng binh tại cánh đồng Xương Giang “Các tướng Lê Khôi, Nguyễn Xí, Phạm Vấn, trương Lôi được lệnh đem theo quân tinh nhuệ và voi chiến tiến lên Xương Giang” (Đại cương lịch sử Việt Nam) và “Ông (tức Lê Khôi) cùng Phạm Vấn đem vài nghìn binh giáp cùng Lê Sát đánh tan Thôi Tụ (là Hữu tướng Đô đốc), Hoàng Phúc (Thượng thư bộ Công) ở Xương Giang, bắt sống Tụ, Phúc và mấy vạn quân địch, khôi phục lại Đông Đô” (Lịch triều hiến chương loại chí).
Khởi nghĩa lam Sơn thắng lợi, Lê Lợi lên ngôi vua mở ra một triều đại mới, phát triển huy hoàng trong lịch sử dân tộc. Tháng 12/1428, triều đình định công ban thưởng cho các tướng lĩnh có công lao, Lê Khôi được ban Kỳ lân hộ vệ tướng quân, quyền Hành quân tổng quản, hàm Nhập nội thiếu uý, sau thăng đến Nhập nội tư mã rồi Đô đốc, được tham dự triều chính và ban cho tước Hầu. Đồng thời dựng bia khắc tên các vị khai quốc công thần trong đó có Lê Khôi.
Năm 1443, ông được cử vào trấn thủ Thuận Hoá là vùng đất phía nam Đại Việt, bằng tài năng và uy đức của mình ông đã góp phần giữ yên bờ cõi, ổn định tình hình, chăm lo đời sống của nhân dân. Củng trong năm này, ông đã cùng quân triều đình dẹp tan cuộc nổi loạn của Bế Khắc Thiện và Nông Đắc Thái được nhà vua tặng kim phù và áo bào. Năm 1443, đời vua Lê Nhân Tông ông được điều vào làm Đốc trấn Nghệ An. Ông đã cùng nhân dân khai hoang lập ấp, đắp đê dọc hai bờ sông Lam, sông La, miễn giảm sưu thuế, phát triển kinh tế. Năm 1446, ông cùng Đô đốc Lê Khả sau khi chinh phạt Chiêm Thành, trên đường chiến thắng trở về đã lâm trọng bệnh rồi mất.
Đền Chiêu Trưng hiện nay được xây dựng lại khá bề thế trên nền đất củ (ngoại trừ cổng tam quan), là điểm du lịch văn hoá tâm linh của đông đảo quần chúng nhân dân vùng hạ Đức Thọ và các xã phía nam của huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Dọc theo triền đê La Giang là một vùng đất nổi tiếng về học hành khoa bảng, đó là xã Trung Lễ. Theo truyền ngôn thì địa danh Trung Lễ được ghép từ hai chuẩn mực của nho gia đó là “trung” và “lễ”. Theo một số thư tịch cổ vùng đất này được khai phá từ thời Đinh “Duyên xưa đất lập từ thời Đinh” (Lê Trọng Đôn). Là mảnh đất đậm đặc các di tích lịch sử văn hoá - danh nhân và truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Tương truyền vào đời Trần đông đảo nhân dân Trung Lễ đã theo vua Trần Trùng Quang về tựu nghĩa dưới cờ Bình Định Vương ở núi Phù Lê. Nhưng nổi tiếng nhất là cuộc khởi nghĩa của nhân dân Trung Lễ trong phong trào Cần vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX.
Tháng 8/1885, nhân dân Trung Lễ phụng chiếu chỉ của vua Hàm Nghi đứng lên chống Pháp. Cậu ấm Ninh (tức Lê Ninh) được thân hào và dân chúng cử ra chỉ huy cuộc khởi nghĩa. Đại đồn Trung Lễ đóng tại xóm Đình và một phần xóm Ràn. Quân khởi nghĩa lúc đông nhất lên đến 1000 người “phu ở ngoài bất tính, chỉ tính được một nghìn” (vè ấm Ninh hạ thành Hà tĩnh), tổ chức thành cơ, vệ, chia làm 5 đạo: Tiền, hậu, tả, hữu và trung quân. Đại đồng đóng giữa, các xóm khác đều có đồn nhỏ bố trí theo phép ngũ liên, đồ pháp trận (theo binh pháp xưa). Quân phục có áo thâm, khăn ngại (xanh lục), vũ khí là giáo, gươm, côn, súng khai phục và súng cò máy đá. ở gần đại đồn có lò rèn khí giới, các nhà giàu trong làng trong xã xuất lúa nuôi quân, đóng tiền mua sắm quân trang, quân dụng. Nghĩa quân luyện tập ngày đêm ở đồng Dăm đầu làng, lập trường bắn súng.
Đầu tháng 11 năm 1885, nghĩa quân xuất phát từ đại đồn theo đường núi tiến quân vào hạ thành Hà Tĩnh với các cánh quân của các sỹ phu Nguyễn Thoại (Hương Khê), Nguyễn Chanh, Nguyễn Trạch (Can Lộc) … đã nhanh chóng hạ thành Hà Tĩnh thu toàn bộ khí giới, lương thực, voi ngựa. Bố chánh Lê Đại theo giặc bị nghĩa quân xử tử. Ngày 22/11/1885, nghĩa quân Trung Lễ tiếp viện cho nghĩa quân Phan Đình Phùng tấn công vào Định Trường (Đức Yên) đánh thị uy. Bọn phản động được quân Pháp từ Vinh kéo vào giúp sức, lực lượng địch đông nghĩa quân đành rút về đại đồn. Ngày 26/11/1885, giặc Pháp đánh vào Trung Lễ, nghĩa quân kháng cự quyết liệt, nhưng do súng đạn của nghĩa quân không sát thương được quân địch cách 200 m trở lên nên lính giặc đánh thốc vào đại đồn. Hàng ngũ nghĩa quân rối loạn, gần tối Lê Ninh tập hợp quân bản bộ rồi theo đường núi lên Bạch Sơn (gần Truông Mèn – Hương Sơn) xây dượng căn cứ mới. Hai năm sau Lê Ninh mất, Trần Cáp thay Lê Ninh chỉ huy nghĩa quân, liên lạc với nghĩa quân Nguyễn Chanh, Nguyễn Trạch lập căn cứ ở rú Xanh (Can Lộc) và liên lạc với nghĩa quân Cao Thắng ở Thượng Bồng Vũ quang. Từ năm 1890, phong trào Cần Vương ở Trung Lễ hoạt động công khai. Trần Cáp được phong làm Lãnh binh chỉ huy quân Lễ Thứ. Lực lượng đã có trên 150 tay súng thường xuyên chặn đánh những toán quân tuần tiểu lẻ tẻ của quân Pháp mà trận đánh nổi tiếng nhất là trận Đồng Đằng. Từ năm 1895, phong trào duy Tân ở Hà Tĩnh suy yếu dần. ở trung Lễ, hoạt động Cần Vương củng đi dần vào thoái trào và chấm dứt hoàn toàn vào năm 1897 khi các thủ lĩnh Cần Vương của làng là ông Trần Cát bị giặc Pháp bắt và bị xử tử, nhường bước cho những phong trào yêu nước, cách mạng tiếp theo như Duy Tân, Đông Du, Phục Việt, Hưng Nam và Tân Việt.
Nằm về phía Đông của xã Trung Lễ là xã Đức Thuỷ, nơi có di tích lịch sử văn hoá và kiến trúc nghệ thuật đền Voi Mẹp. Theo truyền thuyết dân gian, đầu thế kỷ XV, sau khi giặc Minh sang xâm lược nước ta hưởng ứng theo ngọn cờ nghĩa của vua Trần Trùng Quang nhân dân khắp vùng thừa tuyên nghệ An đã đứng lên chống giặc cứu nước trong đó có người nữ tướng mà tục truyền gọi là “nữ tướng Châu Chấu”. Sau khi bà mất, để tưởng nhớ công ơn của vị anh hùng dân tộc, nhân dân vùng kẻ Ngù (Đức Thuỷ) đã xây dựng đền thờ để ghi nhớ công đức.
Đền Voi Mẹp nằm trên một mãnh đất bằng phẳng, cao ráo bao quanh bởi nhiều cây cổ thụ xanh tốt, trước mặt là dòng sông Trúc, xưa có chợ Chùa sớm hôm thuyền bè xuôi ngược. Là một trong những thắng cảnh đẹp nổi tiếng trong vùng đã được nhà chí sỹ yêu nước Phan Văn Huân vịnh bài thơ:
“Trước mặt sông song muôn vẽ bày
Năm qua xuân kém đẹp xuân này
Ruộng cày, giếng nước lề xưa đó
Quán rượu phòng trà cảnh mới đây
Hói cũ thuyền xưa hàng bán chạy
Cây cao bóng mát khách ngồi đây
Người làng gặp gỡ xưa nay ít
Giấc mộng quê nhà chẳng chút khuây”
Đền có mặt bằng kiến trúc hình chữ tam ( ), phía trước đền là đôi cột nanh lớn đứng uy nghi sừng sửng. Ba toà thượng, trung và hạ điện bằng gỗ lim lợp ngói mũi hài được chạm trổ công phu rêu phong cổ kính. Nổi bật trong kiến trúc của ngôi đền là nghệ thuật chạm khắc gỗ với các đề tài dân gian truyền thống như: Rồng chầu, phượng ngậm cuốn thư, rùa ngậm đài sen, cúc leo, lá đề, hươu, nai…bố trí trên các đường xà, hạ, ván thưng, hòn kê…và các kết cấu kiến trúc khác từ cổng tam quan đến thượng điện. Được tạo tác, thể hiện một cách sống động và tinh tế, với đôi bàn tay khéo léo những người nghệ nhân xưa đã thổi hồn vào đây những tác phẩm điêu khắc đầy sức sống. Nếu quan sat kỹ, ta thấy ngay từ ngoài vào trên bộ vì gỗ nhà tam quan các hình rồng phượng được chạm khắc quyện chặt vào nhau chạy dài trên đôi quá giang, điểm vào đó là hình hoa lá. Các nét chạm vừa uyển chuyển, mềm mại, liên hoàn, nửa kín nửa hở như hai con rồng trên đường xà thượng điện, phần đầu được chạm nổi nhô lên trên nền đài sen và hoa cúc, còn phần thân và phần đuôi được hoà quyện trong tổng thể của kiến trúc với một bố cục không gian hợp lý. Các hoạ tiết thường được chạm sâu làm quyện chặt, liền mạch các đề tài trang trí, nếu quan sát phiến diện thì thật khó phân biệt từng đề tài riêng lẻ. Trong các mảng đề tài còn có những chi tiết phụ để tôn thêm vẻ trng nghiêm và sinh động nhưng không rối mắt như dây leo, dao mác… ở trung điện trên các đường xà đỡ mái, người thợ đã lợi dụng độ dài để tạo bốn đầu rồng đang vươn cao nhô lên, nhìn từ xa trông như những con rồng đang chầu vào nhau.
Bằng nghệ thật chạm khắc điêu luyện, bố cục điêu khắc được phân bố một cách cân đối hài hoà những người nghệ nhân xưa đã góp phần nâng nghệ thuật chạm khắc gỗ lên đến đỉnh cao, làm phong phú thêm kho tàng kiến trúc đình, đền, chùa Việt Nam những giá trị không nhỏ, là di sản văn hoá quý báu trong bản sắc văn hoá truyền thống dân tộc.
Toạ lạc trên một gò đất nhỏ, dưới bóng cây cổ thụ giữa cánh đồng xã Đức lâm là chùa Hoa Lâm. Theo truyền thuyết dân gian, vào năm Hồng Đức thứ 10 (1470), sau khi chiến thắng Chiêm Thành trên đường ca khúc khải hoàn trở về kinh thành Thăng Long đoàn quân do vua Lê Thánh Tông thân chinh dẫn đầu đã cho thuyền dừng lại bên bờ sông Bán Thuý lên đây vãn cảnh, thắp hương lễ Phật. Thấy quang cảnh vắng vẽ hoang tàn nhà vua đã xuống chiếu cho quan lại và nhân dân địa phương đóng góp tiền của trùng tu xây dựng lại ngôi chùa. Nhân sự kiện đó nhân dân mới đổi tên thành chùa “Hoa Lâm Ngự Tự”.
Là một ngôi chùa cổ xuất hiện vào loại sớm ở vùng Đức Thọ, ngôi chùa do công chúa Vương Mỹ Ngọc con gái vua Trần Trùng Quang xây dựng vào đầu thế kỷ XV (khoảng 1409 – 1413), trong lúc thăm thú dạo chơi vùng đất Chi La, khi đi qua đây thấy đất nơi đây có thế “rồng chầu hổ phục” bèn tâu xin vua cha cho xây dựng một ngôi chùa lấy tên là Hoa Lâm Tự. Ngược theo dòng chảy thời gian, vào năm 1406, quân minh xâm lược nước ta. Nhà Hồ sụp đổ, một số tôn thất củ của nhà Trần đã vào vùng đất Chi La kêu gọi nhân dân đứng lên khởi nghĩa, xây dựng căn cứ địa ở Bà Hồ (cách Đức Lâm khoảng 2km theo đường chim bay) với một tấm lòng mộ Phật. Trước đây ngôi chùa rất lớn bề thế với hai toà hậu cung và bái đường uy nghi được chạm trổ công phu nhiều hoạ tiết hoa văn có giá trị cùng với hơn 150 pho tượng Phật. Sau hơn 600 năm tồn tại, qua những thăng trầm biến đổi của lịch sử ngôi chùa cổ nay đã không còn. Ngôi chùa mới tuy không lớn nhưng vẫn thu hút đông đảo thiện nam tín nữ và nhân dân quanh vùng thương xuyên về đây thắp hương lễ Phật, cầu xin cuộc sống luôn an lạc cát tường.
Một trong những giòng họ nổi tiếng vùng Trường Lưu huyện Can lộc có nhà thờ ở xã Đức Dũng đó là nhà thờ Hàn lâm thị giảng nguyễn Huy Quýnh. Ông là tác giả của các tác phẩm nổi tiêng như: thác lời gái phường vải Tràng Lưu gửi trai phường nón Tiên Điền bằng văn nôm, Ninh công Tây Hồ mạn hứng thi tập, quảng Thuận đạo sử tập và hai bộ sách đã thất lạc là Dần phong văn sao (3 quyển) và Dần phong thi sao (theo Nguyễn thị gia tàng).
Sinh ra và lớn lên trong một vùng đất nổi tiếng học hành và khoa bảng đất Hồng Lam trong một gia đình trâm anh thế phiệt. Thân phụ là Anh liệt đại vương Tả thị lang Nguyễn Huy Tựu. Anh trai là Thượng thư bộ Công, học giả Nguyễn Huy Oánh. Nguyễn Huy Quýnh (1734 – 1785), tự Duy Nham, hiệu Dần Phong, thuỵ là Trung Ý, sinh ngày 19/2 năm Giáp dần, niên hiệu Long Đức thứ 3 (1734). Năm 23 tuổi ông đỗ đầu kỳ thi hương, Đến năm Nhâm thìn (1772) ông đậu Tam giáp đồng tiến sỹ xuất thân được bổ làm Cấp trung Hộ khoa, Giám sát ngự sử xứ Sơn Nam rồi Tham hiệp trong những lần được cử đi dẹp giặc. Với tấm lòng khoan dung, hết lòng vì nước vì dân. Thấu hiểu được nỗi cơ cực của người dân trong những lần đi đánh dẹp, ông đã nhiều lần dâng sớ lên triều đình vạch trần tệ nạn của bọn hào mục ở địa phương “Những hào mục lúc đang điêu tàn, ruộng bỏ hoang liền phá bỏ bờ làm của riêng. Bọn chúng còn ẩn lậu cả công điền công thổ, không nộp thuế” cho nên “Chỉ riêng những dân nghèo thấp kém là phải chịu thuế má, lao dịch ngày một nặng nề, kẻ nghèo thành cùng, kẻ cùng thành phiên lưu, vất vả gian nan càng ngày càng tệ”. Vì vậy ông đề nghị đối với bọn hào mục thì “Xin nhất loạt đuổi về”, đối với binh lính thì phải “khép vào kỷ luật nghiêm, nếu xét không thể dùng được thì cho về cày ruộng, không nên chú trọng vào só lượng mà thả nổi chúng làm hại dân”, “Phải trừ khử được tệ tham nhũng, bớt việc lao dịch, chú trọng đề cao đức tính giản dị (không được hoang phí), không được gây phiền nhiểu và đảm bảo sự ổn định cho nhân dân”. Là người cương trực khí khái, khi triều đình cầu lời nói thẳng ông đã dâng sớ tâu 7 việc cần làm cho dân cho nước, phải soi xét đến tận nơi ở ẩn và lắng nghe lời tâu bày của các sỹ phu… Mỗi lần ông luận giảng ở trường Quốc tử giám, các học trò đều khen ông là “Rương sách của Lai Thạch”
Nhà thờ Nguyễn Huy Quýnh là một di tích chứa đựng nhiều giá trị văn hoá lịch sử to lớn. Đây là một địa điểm để tôn thờ và tri ân một danh nhân của đất nước, danh nhân nối tiếp dòng dõi giòng họ Nguyễn Huy, một giòng họ nổi tiếng về con đường học hành, khoa cử và văn chương. Văn tài của ông chỉ còn lại khoảng 20 câu lục bát nên khó đánh giá thêm gì về ông. Qua hành trạng chúng ta chỉ biết được rằng ông là người đỗ đạt cao, làm quan thanh liêm, cương trực, thẳng thắn và tận tuỵ. Các tác phẩm còn lại cùng một số trích đoạn và điều trần, tấu khải của ông, chúng ta biết về ông là một nhà địa chí với những ký chú, bản đồ tương đối có giá trị. Một cây bút chính luận với lời lẽ xác đáng, chân thực, nhạy bén và là một hồn thơ với những vần thơ đượm chất trữ tình. Cùng với Nguyễn Huy Oánh, hai anh em ông đã tạo thành thế hệ đầu tiên của dòng văn thơ Nguyễn Huy, góp phần vào việc truyền bá đạo học ở đất Hà Tĩnh. Ông xứng đáng là người được hậu thế tôn vinh.
Dưới chân núi Long Mã Phụ Đồ, nơi có cây đa cổ thụ, nước suối trong xanh bốn mùa, núi đồi hùng vĩ, đầm ao sen xưa kia toả hương thơm ngát …đã làm say đắm tâm hồn bao tao nhân mặc khách khi viếng thăm chốn này đó là chùa Tiên Lữ (Tiên Lữ tự) xã Đức Lập. Trong một lần vãn cảnh nơi đây, nhà thơ, học giả Bùi Tồn Trai (Bùi Dương Lịch) đã từng cảm tác:
“Văn minh mở đế hiệu
Thần vật gửi quê ta
Núi Phượng, núi Voi chia cánh
Sông La, Minh hội hà
Cõi Hoan bày pháp tượng
Cửu Đức tự xung hoà
Biết rõ mạch truyền đến
Khe Khổng, núi Ni mà”
Chùa được xây dựng trong khoảng thời gian từ năm 1428 đến 1433, để thờ Phật và hai mẹ con bà Hoàng Hậu Bạch Ngọc và công chúa Huy Chân.
Theo “Nham cảo chùa Am”, Hoàng Hậu Bạch Ngọc tên thật là Trần Thị Ngọc Hào, con gái ông Trần Quang Thiệu (Nhiêu), một thường dân ở làng Tri Bản (Bi Bản) xã Thổ Hoàng. Vua Trần Duệ Tông (1372 – 1377) trong một lần du ngoạn qua vùng phía nam Cổ Đổ (tức Hương Sơn ngày nay) bắt gặp một người con gái có vẽ đẹp sắc nước hương trời, ăn nói đoan trang thuỳ mị nên hạ chiếu tuyển làm cung phi đưa về kinh thành Thăng Long phong làm Bạch Ngọc Hoàng Hậu, sinh ra công chúa Huy Chân (Trần Thị Ngọc Hiền), sau này là vợ của vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi). Năm 1377, sau khi vua Trần Duệ Tông chết ở thành Đồ Bàn (Quy Nhơn Bình Định ngày nay), trước nguy cơ cướp ngôi của Hồ Quý Ly. Hoàng Hậu Bạch Ngọc cùng con gái và một số tôn thất nhà Trần, gia nhân, tuỳ tùng rời bỏ kinh thành tìm về quê hương lánh nạn. Đến dưới chân vùng dãy núi Cốc và dãy núi Trà Sơn thấy đất đai hoang vu, dân cư thưa thớt bèn dừng chân khai hoang lập ấp, chiêu mộ binh sỹ, tích luỹ lương thảo chờ ngày khôi phục cơ nghiệp nhà Trần. Lập thành làng mạc từ Lâm Thao, Hoà Duyệt, Thượng Bồng, Hạ Bồng, Đồng Công, Thượng Nga, Lai Thạch xuống dưới chân dãy núi Thiên Nhẫn mà vùng Đồng Lạc, Hoà Yên là trung tâm trang trại của bà.
Khi Lê Lợi theo kế của Nguyễn Chích kéo quân vào Nghệ An xây dựng căn cứ địa trên dãy núi Thiên Nhẫn. Tướng Bùi Bị tình cờ gặp mẹ con bà Hoàng Hậu Bạch Ngọc liền dẫn về yết kiến nhà vua. Thấy công chúa Huy Chân có nhan sắc, Lê Lợi lấy nàng làm cung phi và dựng điện Phượng Hoàng cho Huy Chân ở. Bạch Ngọc Hoàng Hậu đã hiến cho nghĩa quân tất cả tiền của, lương thảo và trang trại của mình. Sau khi khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, bà xin nhà vua cho xây dựng hai ngôi chùa: Đó là chùa tiên Lữ ở Mỹ Xuyên và chùa Diên Quang (chùa Am) rồi về tu hành ở đó. Công chúa Huy Chân sinh hạ công chúa Trang Từ (Ngọc Châu) rồi củng xin về Chùa Am tu hành cùng với mẹ. Về sau công chúa Trang Từ củng về tu hành ở đây.
Chùa Tiên Lữ cổ nay đã không còn, ngôi chùa hiện nay được nhân dân xã Đức lập cùng với những người có hằng tâm, hằng sản trong vùng góp công, góp của tôn tạo xây dựng lại trong thời gian gần đây. Chùa là một minh chứng cụ thể sống động cho những công lao đóng góp to lớn của Hoàng Hậu Bạch Ngọc trong công cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh. Gắn liền với việc khai hoang lập ấp tạo nên một vùng dân cư rộng lớn trù phú cùng với sự phát triển của đạo Phật ở một vùng đất mới. Cuộc đời, sự nghiệp và đức hạnh của bà mãi mãi là tấm gương sáng để con cháu đời sau học tập, noi theo
Được xây dựng ở lưng chừng núi Am (Am Sơn), một ngọn núi hình chóp nón thuộc dãy Trà sơn, xung quanh là các ngọn rú Tròn, rú Voi, rú Tàng, rú Bạc, rú Nhắt…Chùa am (Diên Quang Tự) xã Đức Hoà quay mặt về hướng nam, lưng tựa vào vách núi. Hai bên có hai khe nước đổ vào Hồ Đông và Hồ Tây. Trước mặt là một thung lũng rộng xóm làng trù mật, con sông Ngàn Sâu hiền hoà, xa xa là dãy Trường Sơn hùng vĩ bốn mùa mây phủ. Trong khu vực chùa có nhiều cảnh trí thiên nhiên kỳ thú mà tạo hoá đã đặc biệt ưu đãi cho một công trình tôn giáo tín ngưỡng tôn nghiêm. Từ phía dưới đi lên chùa có rất nhiều viên đá lô nhô giống như một đám người đang quỳ lạy, gọi là “Bái Phật tăng”. Sau chùa nhều tảng đá dựng đứng gọi là “Đá thần công”, xung quanh chùa là rừng thông tĩnh mịch thâm nghiêm. Chùa Am có mặt bằng kiến trúc hình chữ công ( ), kiểu kiến trúc phổ biến của thời Lê, nội thất bố trí theo chiều dọc. Củng giống như các ngôi chùa khác, bàn thờ chính ở chùa Am phía trong cùng cao nhất là ba pho tượng Tam thế Phật, rồi đến các tượng Phật Di Đà tam Tôn, tượng Thích Ca sơ sinh và các tượng Nam Tào, Bắc Đẩu. Bên phải bàn thờ Phật xưa là tượng Bạch Ngọc Hoàng Hậu bằng đồng đặt trong khám gỗ sơn son thếp vàng (nay chỉ còn thờ di ảnh tượng của bà), bên trái thờ các vị Phật tăng. Phía trước chùa có năm ngôi tháp cổ là nơi đặt xá lỵ (tro hài cốt) của các bậc tu hành tại đây sau khi viên tịch.
Chùa Am là một trong những ngôi chùa cổ ít ỏi còn sót lại một cách tương đối nguyên vẹn ở Hà Tĩnh sau gần 600 năm tồn tại. Là nơi mà bà Hoàng Hậu Bạch Ngọc ngày đêm tu hành, sáng tối niệm Phật cầu mong làm điều thiện cho đời. Công đức ấy, tấm lòng ấy thật trong sáng cao đẹp biết bao. Chùa còn là nơi sinh hoạt văn hoá, nơi thực hiện các nghi thức tín ngưỡng tôn giáo, rủ bỏ những dục vọng tầm thường hướng tới thiện căn.
Nằm trong hệ thống đền, chùa gắn liền với quá trình hình thành các cộng đồng dân cư trong quá trình khẩn hoang của bà Hoàng Hậu Bạch Ngọc ở vùng Đức Thọ hiện nay còn có rất nhiều di tích lịch sử văn hoá khác như nhà thờ Trần Văn Bút, Trần Văn Bích, chùa Vền (Vạn Phúc Tự), đền Trần Duy… nhưng đẹp và nổi bật hơn cả là đền Liên Minh (xã Liên Minh).
Đền Liên Minh (còn gọi là đền Thánh Mẫu) nằm bên tả ngạn dòng sông La, giữa một vùng dân cư đông đúc trù phú, xa xa là dãy núi Thiên Nhẫn nơi có thành Lục Niên của Lê Lợi trong công cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh.
Ngôi đền hiện nay khá lớn, các kết cáu kiến trúc chính vẫn gần như nguyên vẹn như: Cột nanh, hồ bán nguyệt, tắc môn, nhà ngũ lâu cùng với ba toà thượng, trung và hạ điên. Truyền thuyết kể lại rằng sau khi Hoàng Hậu Bạch Ngọc mất (ngày 22/6 niên hiệu Hồng Đức), thể theo nguyện vọng của bà vua Lê Thánh Tông đã cho người đưa thi hài của bà về an táng tại quê hương (làng Tri Bản, huyện Hương Khê). Trên đường về chẳng may thuyền bị gió bão đánh đắm và nước lũ cuốn trôi. Thi thể của bà dạt vào làng Yên Thái xã Liên Minh. Được tin ấy nhà vua ra lệnh cho quân sỹ và nhân dân địa phương an táng và lập đền thờ bà tại vùng đất đó. Giao cho hai thôn Yên Mỹ, Yên Phú của làng Yên Thái trông coi và khói hương thờ phụng.
Đền Liên Minh được tạo tác chạm trổ khá đẹp, các hoạ tiết hoa văn hầu như có mặt khắp các kết cấu kiến trúc của ngôi đền từ ngoài vào trong. Nhưng giá trị nhất là nơi đây còn lưu giữ được một chiếc kiệu cổ (kiệu bát cống) sơn son thếp vàng, là một trong những long kiệu cổ đẹp nhất Hà Tĩnh hiện còn lưu giữ được. Các điểm đầu và cuối của đòn kiệu được chạm trổ hình đầu rồng vươn ra phía trước cực kỳ tinh xảo. Thân đòn tạo biểu tượng của hình rồng cách điệu. Các chi tiết khác trên thân kiệu đều được chạm trổ các hoạ tiết hoa văn theo các đề tài như: Tứ quý, hổ phù và các hoa lá dây leo cách điệu rất đẹp. Ngoài ra đền còn lưu giữ được 7 bản sắc phong từ thời Tây Sơn (Cảnh Thịnh) đến thời Nguyễn.
ở vùng thượng Đức Thọ còn có một ngôi đền khác đẹp nổi tiếng đó là Đền Cả Du Đồng (thường gọi là đền Hàng Tổng) thôn Vĩnh Khánh, xã Đức Đồng.
Đền thờ Bùi thúc Ngật, người có công lao khai phá, chiêu dân lập ấp lập nên xóm làng của cả tổng Du Đồng, mở mang nông tang (nghề nông nghiệp và trồng dâu nuôi tằm), mở trường dạy học đầu tiên ở vùng đất này. Bùi Thúc Ngật sinh vào giữa thế kỷ XV, sau khi đậu Hương cống ông được vua Lê giao chức Chánh đội trưởng, phó Thiên hộ quan kiêm Tổng giáo quan khai phá vùng thượng Đức Thọ tổng Du Đồng. Ông đã đem hết trí tuệ và sức lực cùng nhân dân biến những vùng đất chiêm trũng thành ruộng vườn phì nhiêu, tiêu diệt thú dữ, nuôi tằm dệt vải. Nhờ đó mà nghề nông phát triển, tổng Du Đồng trở thành một nơi có xóm làng trù mật, dân cư đông đúc. Ông còn mở trường dạy học cho nhân dân trong vùng. Sau khi ông mất để tỏ lòng thương tiếc ông nhân dân trong tổng đã chọn một mãnh đất đẹp ở thôn Vĩnh Thành xây dựng ngôi đền quanh năm hương khói thờ phụng.
Đền có mặt bằng hình chữ tam ( ), gồm: Thượng, trung và hạ điện. Trước cổng đền là hai cây thông cổ thụ và rất nhiều ao hồ tạo nên thế cận thuỷ. Phía sau là cây bàng lớn toả bóng che rợp cả một vùng trời, con sông nhỏ Hắc Giang lượn vòng uốn khúc như ôm lấy thôn Vĩnh Khánh rồi đổ ra sông Ngàn Sâu. Tam quan đền Du Đồng được làm bằng gỗ lim, gỗ mít, một gian hai vì kèo, mái lợp ngói mũi hài, bờ nóc đắp lưỡng long chầu nguyệt. Toàn bộ các đường xà, kẻ khâu đấm, rường và cửa võng đều được chạm trổ với kỷ thuật chạm lộng rất tỉ mỷ và tinh xảo với các đề tài dân gian gần gũi với đời sống sinh hoạt như tứ quý, cá vượt vũ môn, rùa đội cuốn thư, tre, trúc…Phía trên cửa võng là bức đại tự “Thần vi, Đức kỳ, thỉnh hỷ hộ”. Dù đứng ở góc độ nào thì những mảng chạm khác ở đây đều toát lên những nét đẹp sắc sảo, uyển chuyển. Đây không chỉ là một công trình kiến trúc mà còn là một tác phẩm điêu khắc nghệ thuật nổi tiếng tại Hà Tĩnh, từ ngày xưa nhân dân trong vùng đã có câu ca:
“Gác chuông Kẻ Thượng
Hương án Xa Lang
Tam quan Tự Đồng (Du Đồng)”
Nhà trung và thượng điện đều được làm bằng gỗ, trên các đường kẻ và khấu đầu đều chạm trổ các hoạ tiết hoa văn trang trí như chim phượng, hoa lá cách điệu, nhưng không tạp trung và rực rở như ở cổng tam quan mà có tính chất điểm xuyết. Mặc dù vậy các đường nét chạm trổ ở đây vẫn sắc sảo, uyển chuyển, mềm mại. Đặc biệt hệ thống kết cấu con dư ở nhà thượng điện là nét độc đáo không nơi nào có.
Đền cả Du Đồng là một công trình có sự thống nhất và hoàn thiện về địa lý, bố cục, kết cấu và kỷ thuật, mỹ thuật trong xây dựng. Những mảng chạm khắc của ngôi đền là không những chỉ mang giá trị lịch sử mà còn mang giá trị kiến trúc nghệ thuật vô giá mà các thế hệ cha ông ta đã sáng tạo ra trong lịch sử còn để lại.
Thấp thoáng dưới tán những cây bạch đàn trên một mảnh đất cao ráo bằng phẳng giữa cánh đồng khối 14 thị trấn Đức Thọ là đền Hồ Nam. Đền được xây dựng vào khoảng giữa thế kỷ XVI (đời vua Lê Anh Tông, thời Lê Trung Hưng). Ban đầu ngôi đền có ba toà thượng, trung và hạ điện được chạm trổ khá sắc sảo tinh vi, nay chỉ còn lại hai toà thượng, hạ điện và một am thờ Dược Sư bên cạnh. Là một di tích lịch sử văn hoá cổ, ra đời cách đây hàng trăm năm ở một vùng đất giàu truyền thống yêu nước và khoa bảng. Đền Hồ Nam ban đầu thờ các vị Thần có nguồn gốc là nhiên Thần, thiên Thần theo tín ngưỡng “Vạn vật hữu linh” của người Việt cổ (Cao Các Mạc Sơn là Thần núi, Hổ Nha Lẫm là Thần hổ còn Ngọc Nữ Song Đồng Phương Dung là thiên Thần). Nhưng cùng với sự hình thành và phát triển sầm uất của cộng đồng dân cư, sự hiển đạt và đóng góp của các vị tiên công, tiên hiền theo con đường khoa bảng, xuất thân từ cửa Khổng sân Trình, mà dần dần việc thờ cúng được chuyển sang các vị Thần có nguồn gốc từ nhân Thần đã có nhiều công lao cống hiến cho quê hương đất nước, đó là: Tiến sỹ, Tả thị lang bộ Hộ, Đông các hiệu thư Phấn nghĩa hầu Trần Dực, Thượng thư Hành khiển Bùi Sằn và Nguyễn Thế Lộc.
Trần DựcT, một con người thông minh tiết nghĩa, có xuất thân nghèo khó nhưng giàu nghị lực phấn đấu vươn lên. Sau khi hiển đạt đã không quên nguồn gốc của mình bằng việc xây lại cây cầu khi ông ngồi học khi xưa để nhắc nhở không chỉ đối với con cháu mà còn mãi đối với các thế hệ mai sau. Sự hi sinh của ông thể hiện một tấm lòng trung quân ái quốc, góp phần vào việc ổn định tình hình chính trị trong nước lúc bấy giờ. Theo gia phả dòng họ: “Trần Dực khi còn nhỏ, nhà nghèo phải đi chăn trâu, ông cho trâu ăn cỏ bên cầu rồi vào mượn sách ở trường học gần đó mang ra cầu ngồi, vừa chăn trâu vừa đọc sách. Sau hai năm liên tục học theo cách ấy mà ai củng phải thừa nhận là ông học giỏi, đi thi đỗ Hương Cống. Lúc ra thành Thăng Long thi Hội vì không có tiền ăn, ông phải dấu tên họ làm người đầy tớ gánh thuê, giặt quần áo, thổi cơm nước cho một ông Cống lạ mặt giàu có. Đến trường thi ông còn phải sắp xếp mọi thứ đưa ông Cống nọ vào tận chỗ ngồi, mọi việc xong xuôi ông mới lo đến phần việc của mình. Vất vả không nói hết nhưng rồi mọi việc củng đâu vào đấy cả. Thi xong yết bảng truyền loa ông đỗ đầu kỳ thi Hội. Người thuê ông làm đầy tớ vẫn không biết. Khi ông tìm đến gặp mặt, người ấy giật mình kinh ngạc, lạy tạ không ngớt. Khi ra làm quan ông cho tu sửa cái cầu mà ông thường xuyên ngồi học ngày trước. Từ đó dân làng gọi tên cầu ấy là cầu Thị Lang. Ông dựng bia bên cầu ghi lại sự việc, cầu đến nay vẫn còn”.
Thượng thư Hành khiển Bùi Sằn là người đã có công rất lớn trong việc giáo dục đào tạo các nho sỹ. Các tư liệu và thư tịch cổ nói về ông (và có thể có các trước tác của ông) hiện không còn nữa, nhưng chắc rằng ông phải là một nhà nho uyên thâm về học vấn, giàu nhân tâm nên mới thu phục được đông đảo học trò trong đó không ít người là con nhà thân vương quyền quý. Trong giai đoạn lịch sử đầy rối ren nửa đầu thế kỷ XVI (cuối thời Hậu Lê, đời các vua Lê Túc Tông – 1504, Lê Uy Mục 1505 – 1509, Lê Tương Dực 1510 – 1516 và Lê Chiêu Tông, Lê Cung Hoàng 1516 – 1527), ông đã chọn cho mình thái độ ứng xử trước thời cuộc là lánh mình ẩn dật (xu hướng “xử”). Tuy nhiên khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, ông đã phất cao ngọn cờ nghĩa đứng lên chống lại họ Mạc theo tư tưởng chính thống của nho gia “Trung quân ái quốc”. Tiếc rằng việc lớn chưa kịp khởi sự thì ông mắc bệnh rồi mất. Vì vậy trong bài thơ của mình Hoàng giáp Bùi Dương Lịch đã lấy làm tiếc cho một con người “Sinh bất phùng thời” nếu không dễ có “…đại văn hào”. Bài thơ như sau:
“Bùi công Hành khiển quan triều trước
Trường học ngày xưa dựng trước bàu
Hương sách cỏ hoa xuân phảng phất
Dòng nho giếng suối nước trong veo
Sinh thời thịnh trị sinh là đáng
Thọ có tài danh thọ mới lâu
Mai Thuỷ trong ngần, Hồng Lĩnh biếc
Gặp thời dễ có đại văn hào”
Còn Nguyễn Thế Lộc, xuất thân trong một dòng tộc nối đời làm tướng ở làng Thượng Xá, huyện Nghi Lộc, xứ/trấn Nghệ An. Một “Vọng tộc” lớn phát về nghiệp võ mà những người khai sáng nên thanh thế dòng họ này bắt đầu từ Nguyễn Hội cùng hai người con là Nguyễn Biên và Nguyễn Xí. Cả ba người đều là những vị khai quốc công thần thời Hậu Lê (1428 – 1527). Trong đó Nguyễn Xí là một trong những anh hùng xuất sắc nhất của Lê Lợi trong cuộc kháng chiến giành độc lập chống quân xâm lược nhà Minh. Là công thần của bốn đời vua đầu nhà Hậu Lê: Thái Tổ (1418 – 1433), Thái Tông (1433 – 1442), Nhân Tông (1442 – 1459) và Thánh Tông (1459 – 1497). Xuất thân trong một dòng họ như vậy, rất có thể Nguyễn Thế Lộc là người có công rất lớn trong việc khẩn hoang lập ấp, lập nên làng Phúc Thái hoặc trong công cuộc chiến tranh chống lại họ Mạc nên được người dân thờ tự ở đền.
Ba con người, ba cuộc đời và sự nghiệp sống gần như trong cùng một giai đoạn đầy biến động của lịch sử dân tộc đều có những đóng góp xứng đáng của mình cho quê hương đất nước. Quả cảm công đức ấy các ông được các vua triều Nguyễn (đối với Trần Dực) và nhân dân các làng Yên Trung, Thái Yên, Phúc Thái tôn làm thần và thờ làm Thành Hoàng của làng (người bảo trợ cho dân chúng), bốn mùa hương khói thờ phụng.
Nằm về phía Tây của đền Hồ Nam, thuộc địa phận thôn Yên Hội xã Tùng ảnh (bóng tùng bên bờ Tam Soa – sông La) là nhà thờ Bùi Dương Lịch. Ông sinh năm 1757, tự là Tồn Thành, hiệu là Thạch Phả và Tồn Trai. Xuất thân trong một gia đình nho học nổi tiếng. Năm 17 tuổi ông đậu Hương cống. Đến năm 1787 ông đỗ Hội nguyên rồi thi đình đỗ Đình nguyên nhị giáp Tiến sỹ (Hoàng giáp). Sau khi Tây Sơn lên ngôi, biết ông là người có tài vua Quang Trung đã mời ông vào làm việc ở Sùng chính viện dưới quyền của La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp. Sau khi vua Quang Trung mất (1792) Sùng chính viện ngừng hoạt động ông về quê mở trường dạy học. Khi Gia Long lên ngôi (1802), ông lại bị triệu ra làm Đốc học Nghệ An, đến 1808 thì ông cáo quan về dạy học và viết sách rồi mất vào năm Mậu tý (1828) tại quê nhà.
Xuất thân trong gia đình nhà nho, lại chịu ơn sâu nặng của triều đình nhà Lê nhưng Bùi Dương Lịch lại sống trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động giữa cuộc tranh giành quyền lực của hai thế lực Lê – Trịnh, cuộc khởi nghĩa của phong trào Tây Sơn, quân Thanh xâm lược nước ta, rồi nhà Nguyễn lên ngôi. Nên ông luôn ở trong tâm trạng “Ưu thời mẫn thế’, không hứng thú gì với việc làm quan mà dành tất cả tâm huyết, sức lực cho việc trước tác, làm thơ và dạy học. Chính ở đây ông đã gặt hái được nhiều thành tựu rất đáng khâm phục. Rất nhiều học trò của ông đã đỗ đạt rất cao trong các kỳ thi tiến sỹ trong đó có cả con trai, con rể của ông. Về trước tác ông đã để lại cho đời sau nhiều tác phẩm có giá trị như “Bùi gia huấn bài”, gồm 2000 câu chữ Hán, “ốc lậu thoại thi văn” gồm 500 bài thơ vịnh cảnh sông núi, nhân vật lịch sử, “Lê quý dật sử” cuốn biên niên chép các sự kiện lịch sử từ cuối thời Lê đến thời Tây Sơn (1758 – 1793), “Yên Hội thôn chí” là cuốn lịch sử địa lý quê hương ông. Đặc biệt là tác phẩm “Nghệ An ký” viết đầu thế kỷ XIX thời Gia Long, khắc in thời Tự Đức, gồm hai phần “địa chí” và “nhân vật chí” ở trấn Nghệ An xưa. Đây là tác phẩm hết sức có giá trị và đáng tin cậy, được các học giả nghiên cứu từ trước đến nay đánh giá rất cao.
Nhà thờ Bùi Dương Lịch được xây dựng năm 1808, có hai toà: thượng điện và bái đường bình dị như nhiều nhà thờ danh nhân khác, dòng họ khác nhưng đây lại là quà tặng của những người học trò củ ghi nhớ ơn sâu nặng của ông. Đây là một nghĩa cử hết sức cao đẹp, đáng trân trọng của học trò và là bằng chứng của tinh thần “Tôn sư trọng đạo” của người dân xứ Nghệ. Nơi đây còn có một hiện vật rất có ý nghĩa, đó là tấm bia và bài văn bia bằng đá được làm từ năm 1866 (Sau 38 năm kể từ khi ông qua đời). Tấm bia do người con rể là Nguỵ Thiện Phủ Thượng thư hộ Bộ chế tác, con trai là Bùi Thúc Kiên tiếp nối hoàn thành. Văn bia do Án sát tỉnh Hưng Yên Nguyễn Văn Siêu soạn. Bài văn gồm 500 chữ, là bản nhận xét cô đọng toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp của Hoàng giáp Bùi Dương Lịch.
Cùng nằm ở địa phận xã Tùng ảnh có nhà thờ và mộ Chấp lệnh công Lê Bôi. Ông là vị khai quốc công thần, vị quan Đại thần thời Hậu Lê, thuỷ tổ dòng họ Lê ở xã Tùng ảnh. Lê Bôi sinh năm 1380 tại xã Tình Di, huyện Đỗ Gia (nay là xã Sơn Diệm, huyện Hương Sơn tỉnh Hà Tĩnh), trong một gia đình khoa bảng và khá giả. Là người thông minh có sức khoẻ, khi quân Minh xâm lược nước ta ông đã xếp bút nghiên theo việc binh đao. Ông chiêu mộ binh sỹ, tích luỹ lương thảo, luyện tập binh pháp chờ thời cơ đánh giặc. Khi Lê Lợi giương cao ngọn cờ nghĩa kêu gọi hào kiệt bốn phương ông đã tìm đến và được Lê Lợi phong làm tướng chỉ huy đội quân 500 nghĩa sỹ tại quê nhà. Trận đánh đầu tiên góp phần thay đổi cục diện thế trận ông tham gia là trận Khả Lưu – Bồ ải (giáp ranh giữa huyện Thanh Chương và huyện Đỗ Gia). Sau đó ông cùng nghĩa quân Lam Sơn tham gia giải phóng vùng Tân Bình – Thuận Hoá, rồi vây đánh thành Nghệ An. Đánh thành Khâu Ôn (Lạng Sơn). Năm 1427, khi Trấn thủ Quảng Tây đem 5 vạn quân và 5000 con ngựa sang cứu viện đến cửa ải Pha Luỹ (Mục Nam Quan) ông cùng tướng Lê Lựu đánh cho tan tác, chém hơn 3000 quân giặc, bắt hơn 500 chiến mã. Năm 1428, khi giang sơn thu về một mối Lê Lợi xưng Vương, ban thưởng cho những người có công lao, tất cả có 93 người. Trong đó Lê Bôi đứng hàng thứ 3 trong 14 Liệt hầu và hàng thứ 26 trong các Á hầu, được phong ấp và hưởng lộc ở Tùng ảnh, vì thế ông trở thành thuỷ tổ của dòng họ Lê xã Tùng ảnh ngày nay. Ông mất năm 1458, mộ táng tại xứ Ma Cô (thôn Châu Tượng, Tùng ảnh) cho đến tận ngày nay. Con cháu ông về sau nhiều người đỗ đạt và có nhiều đóng góp cho quê hương đất nước.
Nhà thờ và mộ Lê Bôi được xây dựng khá khang trang, là nơi tưởng niệm và tri ân vị khai quốc công thần triều Lê, là điểm văn hoá du lịch tâm linh hấp dẫn đối với đông đảo khách tham quan.
Nằm cạnh con đường nối liền giữa quốc lộ 8A củ cắt ngang cánh đồng thôn Đông Thái ra tận đê La Giang là nhà thờ Phan Đình Phùng thuộc thôn Đông Thái xã Tùng ảnh. Đây là nơi thờ tự và tưởng niệm Đình nguyên tiến sỹ Phan Đình Phùng. Một nhà khoa bảng xứ Nghệ yêu nước nồng nàn và là vị anh hùng dân tộc, Sơn trung tể tướng trong phong trào Cần vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX (1885 – 1895).
Cụ Phan Đình Phùng hiệu là Châu Phong, sinh năm Đinh mùi (1847), mất năm ất mùi (1895), xuất thân trong một gia đình có truyền thống khoa bảng. Thân sinh là cụ Phó bảng Phan Đình Tuyển và thân mẫu là bà Phan Thị Long ở làng Đông Thái, xã Việt Yên Hạ, tổng Việt Yên, huyện La Sơn nay là xã Tùng ảnh, huyện Đức Thọ. Năm 1876 ông đỗ Cử nhân trường Nghệ An, đến năm 1887 ông đỗ Đình nguyên Tiến sỹ (đỗ đầu). Được bổ ra làm quan ở huyện Yên Khánh tỉnh Ninh Bình, nổi tiếng là người cương trực ngay thẳng. Sau đó ông được triệu về kinh giữ chức Ngự sử (can gián vua) ở Viện đô sát. Năm 1883 vì chống lại việc phế truất vua Dục Đức của quan Đại chính phụ thần Tôn Thất Thuyết (lúc này là Thượng thư bộ Binh, người đứng đầu phái chủ chiến ở triều đình), ông bị cách chức đuổi về quê hương. Tháng 7/1885, sau khi binh biến ở kinh thành Huế thất bại, Tôn Thất Thuyết đã đưa vua Hàm Nghi và lực lượng chủ chiến ra sơn phòng Quảng Trị phát hịch Cần vương lần thứ nhất và lần thứ hai (9/1885) tại sơn phòng Phú Gia, Hương Khê, Hà Tĩnh. Lúc này cụ Phan Đình Phùng sau khi bị cách chức đuổi về quê hương đã tích cực chiêu mộ nghĩa sỹ, tập hợp lục lượng, tích luỹ lương thảo chuẩn bị chống Pháp. Được tin ấy ông liền dẫn một số sỹ phu La Sơn đến bái mệnh vua và ông được phong làm Tán lý quân vụ Đại thần Thống lĩnh các đạo quân Cần vương chống Pháp. Cuộc khởi nghĩa do ông lãnh đạo đã kéo dài 10 năm (1885 – 1895), trên một địa bàn rộng khắp bốn tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình đã làm cho thực dân Pháp thất điên bát đảo. Đại bản doanh hoạt động chủ yếu tại căn cứ Vũ Quang – Hương Khê, giáp giới với các huyện Hương Sơn, Đức Thọ. Nhân dân khắp nơi kéo về gia nhập nghĩa quân trong đó có nhiều tướng lĩnh có tài như Cao Thắng, Lê Văn Trạc, Nguyễn Mục…Nghĩa quân đã tự tạo được súng trường kiểu 1784 của Pháp, trang bị được hơn 500 khẩu súng với đạn dược đầy đủ. Con số nghĩa quân có lúc lên đến 1000 người chia làm 15 quân thứ. Nghĩa quân chủ yếu dựa vào thế núi rừng hiểm yếu để phòng thủ và chống giặc càn quét và đã đánh thắng nhiều trận lớn ở Phủ Quỳ, Cầu Giát (10/1890), gây cho quân địch nhiều tổn thất. Đầu năm 1893, thực dân Pháp điên cuồng càn quét vào căn cứ địa của nghĩa quân. Trước tình hình đó Phan Đình Phùng quyết định mở một cuộc tấn công quy mô lớn và tỉnh lỵ Nghệ An nhưng không thành, phó tướng của ông là Cao Thắng đã hy sinh. Sau đó quân Pháp liên tục càn quét tấn công vào những khu vực đồn trại của nghĩa quân ở vùng Đại Hàm, Ngàn Cơ, núi Mò Ho. Trong điều kiện bị bao vây cô lập, lương thực, thuốc men, vũ khí đạn dược thiếu thốn lực lượng nghĩa quân ngày càng bị hao hụt. Nhưng trong giai đoạn này có một trận đánh nổi tiếng nhất là trận đánh trên sông Ngàn Trươi, khi quân giặc kéo vào căn cứ địa trên lưu vực sông Ngàn Trươi cụ đã bí mật cho người ngăn nước phía thượng nguồn rồi vót nhiều cọc gỗ thả nổi lên đấy đồng thời cho quân mật phục hai bên bờ sông. Quân Pháp kéo đến, thấy lòng sông cạn, nước chảy chậm liền kéo quân sang. Khi quân địch đã lọt vào trận địa mai phục, sau tiếng pháo hiệu nghĩa quân hai bên xông ra tiêu diệt. Trận đánh này nghĩa quân đã tiêu diệt được hơn 100 tên địch và ba viên chỉ huy, thu được nhiều vũ khí đạn dược. Sau trận ấy thực dân Pháp cay cú chúng tập trung lực lượng với hơn 3000 tên điên cuồng tấn công vào căn cứ Vũ Quang. Trong một trận càn Phan Đình Phùng đã bị thương rồi hy sinh vào ngày 28/12/1895, thọ 49 tuổi. Thi hài của ông được chôn dưới chân núi Quạt. Sau khi dập tắt được cuộc khởi nghĩa, nhằm làm nhụt chí chống Pháp của nhân dân ta, Nguyễn Thân đã cho người đào hài cốt của cụ lên đốt thành tro, nhồi vào thuốc súng bắn xuống dòng sông La. Thương tiếc vị anh hùng dân tộc, nhân dân ta đã xây dựng một ngôi mộ tưởng niệm cụ trên đồi Nê Sơn, thường xuyên hương khói thờ phụng.
Nhà thờ Phan Đình Phùng đã qua nhiều lần trùng tu tôn tạo, lần gần đây nhất là năm 2008 trên một khuôn viên rộng, gồm có: Thượng điện, hạ điện và hai nhà tả vu và hữu vu. Đôi cột nanh phía trước ghi đôi câu đối là sự đánh giá ghi nhận của hậu thế đối với những công lao cống hiến to lớn của cụ đối với quê hương đất nước
Phiên âm: “Đại đức an dân thiên cổ thịnh
Công cao hộ quốc vạn niên trường”
Nghĩa là: Đức lớn an dân ngàn năm thịnh
Công cao giúp nước mãi mãi bền
Phần mộ của cụ hiện nay nắm ở gần đỉnh đồi Nê Sơn là nơi cao ráo thoáng đãng nhất thể hiện sự uy nghi và cung kính của hậu thế đối với bậc tiền nhân. Mộ được ghép bằng đá thanh màu xanh, đỉnh mộ được tạo hình chóp nón trên có gắn hình bông sen. Đặc biệt là tấm bia bằng đá được khắc hai mặt bằng chữ quốc ngữ do ông Trần Huy Liệu, Viện trưởng viện sử học biên soạn bằng chữ quốc ngữ. Nội dung tóm lược cuộc đời và sự nghiệp, tinh thần vì nước quên thân vì dân phục vụ, đức hy sinh cao cả của cụ, ca ngợi cuộc khởi nghĩa do cụ lãnh đạo và tinh thần yêu nước của nhân dân bốn tỉnh Thanh – Nghệ – Hà - Quảng.
Cùng nằm trên địa phận xã Tùng ảnh còn có một di tích lịch sử văn hoá quan trọng và rất có ý nghĩa to lớ, đó là khu di tích lưu niệm đồng chí Trần Phú. Đây là điểm du lịch văn hoá tâm linh hàng năm thu hút đông đảo khách tham quan ở trong và ngoài nước, là sợi chỉ đỏ, nơi gặp gỡ của những con tim hướng về nguồn cội, về Đảng và truyền thống đấu tranh cách mạng của nhân dân ta.
Trong dòng chảy lịch sử Việt Nam những thập niên đầu của thế kỷ XX, đã xuất hiện một tên tuổi lớn, một trí tuệ lớn và một nhân cách lớn. Đó là đồng chí Trần Phú, người soạn thảo Luận cương chính trị – Tổng bí thư đầu tiên của Đảng. Đồng chí Trần Phú sinh ngày 1/5/1904 tại thôn An Thổ, xã An Dân, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Nguyên quán tại đây, xã tùng ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Thân sinh là cụ Trần Văn Phổ, sinh năm ất sửu (1865), mất năm Kỷ dậu (1909). Năm 1897, sau khi đỗ giải nguyên (đỗ đầu) trường Nghệ An, cụ được bổ về làm Giáo thụ huyện Đức Thọ (người trông coi công việc giáo dục của một huyện, tương đương với chức danh trưởng phòng giáo dục hiện nay). Năm 1901, triều đình Huế điều chuyển cụ vào dạy học ở huyện Tuy An tỉnh Phú Yên. Đến năm 1907, triều đình Huế lại điều chuyển cụ ra làm tri huyện huyện Đức Phổ tỉnh Quảng Ngãi. Mặc dù làm quan nhưng cụ rất thanh liêm, khi phong trào chống sưu thuế ở Trung kỳ nổi lên vì chống lại lệnh của thực dân Pháp đàn áp cuộc khởi nghĩa cụ đã tuẫn tiết tại huyện đường Đức Phổ vào đêm 19/4/1909. Thân mẫu là bà Hoàng Thị Cát, một người phụ nữ nông dân cần cù chất phác quê ở xã Châu Dương huyện Nghi Lộc tỉnh Nghệ An. Sau khi cụ Phổ mất gia đình đồng chí Trần Phú lâm vào cảnh khốn cùng, thực dân Pháp đã đuổi cả gia đình ra khỏi huyện đường. Bà Cát không thể mang theo sáu người con trở về Hà Tĩnh, đành lếch thếc dắt díu nhau đi về phía Tây thành Quảng Ngãi mở một ngôi hàng nước kiếm sống qua ngày. Hơn một năm sau vì cuộc sống quá vất vả và quá buồn phiền, bà đã qua đời vào một ngày cuối thu năm 1910. Sau khi bà Cát mất, mấy anh chị em bơ vơ lưu lạc một người một phương. Đồng chí Trần Phú và đồng chí Trần Ngọc Danh hai người con bé nhất được người dì đưa về Quảng Trị cho ăn học và học hết bậc tiểu học ở đấy. Mùa thu năm 1918, đồng chí Trần Phú vào học trường Quốc học Huế. Sống nơi kinh thành hoa lệ với nhiều cảnh đời ngang trái đồng chí ngày càng thấy rõ ràng hơn nổi nhục của người dân mất nước. Tại đây đồng chí được cụ Võ Liêm Sơn khơi dậy tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc. Lúc này các phong trào yêu nước của các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh đã ảnh hưởng rộng khắp cả nước. Mặc dù rất khâm phục và yêu mến các cụ nhưng đồng chí và các bạn đã sớm nhận thấy các phong trào này có phần không đúng đắn với xu hướng cách mạng lúc bấy giờ. Tháng 10/1922, sau khi đỗ đầu kỳ thi Thành chung ở Huế đồng chí được bổ về làm giáo học dạy ở trường tiể học Cao Xuân Dục thành Vinh. Thành Vinh lúc này là lò lửa cách mạng, nơi có phong trào đấu tranh của công nhân và nhân dân khá sớm. Tại đây có dịp gần gũi với nhân dân lao động, lại được đọc báo ‘người cùng khổ” (Leparia) của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc đồng chí đã thấy đó chính là nguồn ánh sáng mới. Phong trào ngày càng lên cao đã dẫn đến một sự kiện chính trị quan trọng. Mùa hè 1925, tại núi Con Mèo – Bến Thuỷ đồng chí Trần Phú và một số nhà cách mạng ở Trung kỳ đã họp và thành lập hội Phục Việt (là một tổ chức giao thời của một số người thuộc hai nhóm cựu chính trị phạm củ và các giáo viên, sinh viên tiến bộ). Lão chí sỹ Lê Văn Huân một cựu chính trị phạm ở Côn Đảo mới về củng tham gia vào tổ chức này. Sau cuộc họp đó Hội thành lập một chi nhánh ở Vinh. Hoạt động của Hội Phục Việt là dạy chữ quốc ngữ cho công nhân và nhân dân lao động ở Vinh, Hội còn dấy lên tinh thần yêu nước cho nhân dân địa phương. Vào khoảng tháng 4/1924, đồng chí nhận nhiệm vụ sang Lào vận động cách mạng tới Pạc Hin Bun. Tại đây đồng chí đã có dịp đi sâu tìm hiểu cuộc đời cơ cực của những người công nhân mỏ. Chuyến đi này đã giúp đồng chí có những hiểu biết về tình hình thực tế ở Lào để sau này giúp Đảng đề ra những đường lối thích hợp cho cách mạng toàn Đông Dương. Tháng 6/1924, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từ Pháp sang Liên Xô dự Hội nghị quốc tế cộng sản lần thứ V, sau đó người giữ trọng trách phụ trách Uỷ viên Đông Phương bộ, phụ trách Cục Phương Nam của Quốc tế cộng sản (quốc tế III), rồi về hoạt động ở Trung Quốc. Trong thời gian ở Trung Quốc, Người thành lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Châu và đến tháng 6/1925 xây dựng tổ chức Tâm tâm xã thành Đảng Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội ở Quảng Châu. Được tin ấy Ban lãnh đạo Hội Phục Việt sau khi đổi tên thành Hội Hưng Nam, Việt Nam Cách Mạng Đảng liền cử một đoàn đại biểu do đồng chí Trần Phú phụ trách sang Quảng Châu tìm gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc để đề nghị hợp nhất các tổ chức cách mạng Đảng ở trong và ngoài nước. Đến Quảng Châu vào vào đầu tháng 8/1926, đoàn được đưa về trụ sở của Đảng Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng. Đồng chí Trần Phú và các bạn của anh được tham dự lớp Huấn luyện chính trị do Đảng này tổ chức. Đồng chí lấy bí danh là Lý Quý, toàn lớp có khoảng 20 học viên. Lớp học bế mạc vào cuối tháng 10/1926 và đồng chí Trần Phú được kết nạp vào Việt Nam Thanh Niên Cộng Sản Đoàn. Từ đây đồng chí đã được giác ngộ theo chủ nghĩa Cộng Sản để sau này trở thành người học trò xuất sắc, người trợ thủ đắc lực của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Trở về nước đồng chí được phân công về hoạt động ở Nghệ An và Trung Kỳ. Tháng 12/1926, đồng chí Trần Phú về đến Vinh, thực dân Pháp biết đồng chí đã về nước nên lùng bắt ráo riết. Mùa xuân năm 1927, đoàn thể lại cử đồng chí sang Quảng Châu tìm gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Tới Quảng Châu đồng chí được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cử sang học tại trường Đại học Phương Đông ở Mat – xcơ - va (Liên Xô). Trong thời gian này đồng chí lấy tên là Likivây.
Đầu năm 1930, sau khi tốt nghiệp đồng chí Trần Phú từ Liên Xô qua Đức, Bỉ, Pháp và Hà Lan bí mật về tới Sài Gòn vào ngày 8/2/1930 mang theo kiến thức của một nhà lý luận có tài. ở Sài Gòn ít ngày đồng chí sang Hồng Kông và tháng 4 rời Hồng Kông về Hải Phòng rồi đáp xe lửa lên Hà Nội. Tới Hà Nội, đồng chí đề nghị với Đảng cho đi khảo sát tình hình thực tế ở một số địa phương. Đồng chí xuống Nam Định, sau đó sang Thái Bình và khu mỏ Hòn Gai. Đầu tháng 7/1930, đồng chí từ Hòn Gai về đến Hà Nội và được bầu vào Ban Chấp hành Trung Ương lâm thời, đồng thời được phân công dự thảo “Luận cương chính trị của Đảng”. Đồng chí đã bí mật trú ngụ tại số nhà 90 hàng Bông Nhuộm. Tại đây đồng chí đã khởi thảo bản Luận cương chính trị nổi tiếng của Đảng. Bản Luận cương được thông qua tại Hội nghị Trung Ương lần thứ nhất họp ở Hương Cảng – Trung Quốc tháng 10/1930. luận cương là sự bổ sung, phát triển và hoàn chỉnh “Chính cương và sách lược Vắn tắt” của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi thảo tháng 2/1930. Hội nghị đã nhất trí đổi tên Đảng thành Đảng Cộng Sản Đông Dương và đồng chí Trần Phú được chính thức bầu làm Tổng bí thư đầu tiên của Đảng. Sau Hội nghị đồng chí rời Hương Cảng về Sài Gòn vào cuối tháng 11/1930. Lúc này Sài Gòn đang bị địch khủng bố trắng, nhiều cơ sở của ta bị lộ, nhiều chiến sỹ cộng sản bị địch bắt và hy sinh. Vào sáng ngày 18/4/1931 đồng chí đã bị địch bắt tại số nhà 66 đường Săm Pa Nhơ. Thực dân pháp đã giam giữ đồng chí ở bót Pôlô rồi bót Catina. Sau những lần hỏi cung không mang lại kết quả, chúng đã đưa đồng chí về Khám Lớn để chờ xét xử. Sống nơi tù ngục đoạ đày, sức khoẻ đồng chí ngày càng sa sút, bệnh tràng nhạc tái phát và bệnh viêm phổi ngày thêm trầm trọng. Tới tháng 8/1931 thì sức khoẻ đồng chí bị quỵ hẳn. Bọn cai ngục đành phải đưa đồng chí vào nhà thương Chợ Quán để điều trị và tới sáng ngày 6/9/1931 đồng chí đã vĩnh biệt đồng bào, đồng chí thân yêu trên tay những người đồng đội. Để lại cho toàn Đảng, toàn dân một tấm gương ngời sáng với lời trăn trối cuối cùng “Hãy giữ vững chí khí chiến đấu”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá: “Đồng chí Trần Phú là một người con ưu tú của Đảng và nhân dân đã oanh liệt hy sinh cho cách mạng”.
Gần 70 năm xa cách, thể theo nguyện vọng của nhân dân, sau khi tìm được hài cốt đồng chí Trần Phú. Tại dinh Thống Nhất Đảng và nhà nước ta đã tổ chức trọng thể lễ truy điệu và di dời hài cốt đồng chí về an táng tại quê hương ngày 12/1/1999.
Khu di tích lưu niệm đồng chí Trần Phú toạ lạc trên một khuôn viên rộng bên cạnh bờ đê la Giang, dưới bóng mát của những cây nhãn, cây xà cừ quanh năm xanh tốt. Khu lưu niệm gồm có nhà thờ tiểu chi họ Trần và nhà Trưng bày lưu niệm đồng chí Trần Phú. Nhà thờ tiêu chi họ Trần nguyên là nhà dân dụng được cụ Trần Viết Tân (cố nội của đồng chí Trần Phú) xây dựng vào năm 1862, sau đó được thân sinh đồng chí là cụ Trần văn phổ kế tự. Khi cụ Phổ vào Nam làm quan mang theo cả gia đình thì ngôi nhà được giao cho ông Đồ Cầu (chú ruột đồng chí Trần Phú) thừa hưởng. Vào khoảng những năm 1930, khi ông Đồ Cầu làm được căn nhà 3 gian kế bên thì ông hiến tặng ngôi nhà cho dòng họ và từ đấy tới nay ngôi nhà trở thành nhà thờ tiểu chi họ Trần. Ngôi nhà này, trong thời gian đồng chí học tập tại Huế và trong thời gian dạy học ở trường Cao Xuân Dục thành Vinh đồng chí thường về thăm nhà vào mỗi dịp hè . Vì vậy ngôi nhà trở thành di tích gốc nơi thờ tự vong linh tiên tổ họ Trần và nơi tưởng niệm, thờ tự vong linh đồng chí Trần Phú. Bên cạnh là Nhà trưng bày lưu niệm đồng chí có diện tích 360 m2, trưng bày rất nhiều tài liệu hiện vật về cuộc đời và sự nghiệp đồng chí Tổng bí thư Trần Phú.
Toạ lạc trên một khuôn viên rộng gần 7ha ở khu vực đồi Quần Hội thôn Châu Linh xã Tùng ảnh là khu lăng mộ đồng chí Trần Phú. Là một nơi có địa thế đẹp, sông núi hữu tình. Bên núi Tùng Lĩnh, trước bến Tam Soa (ba giải lụa), nơi hội tụ của hai con sông Ngàn Sâu và Ngàn Phố, bắt nguồn từ các huyện Hương Sơn, Hương Khê và Vũ Quang tạo nên dòng sông La thơ mộng, một trong những con sông lớn trong vùng nổi tiếng cả một châu, đã đi vào thơ ca từ ngàn đời nay và trở thành một phần tâm hồn, máu thịt, tình cảm của người dân nơi đây. Dòng sông La uốn mình qua chín xã của huyện Đức Thọ hợp lưu với dòng sông Cả (Nghệ An) ở ghềnh Yên Cự tạo thành dòng sông Lam. Sông La cùng với núi Hồng đã trở thành biểu tượng, thành tâm thế của người Hà Tĩnh. Phía bên kia bờ sông Ngàn Phố là quê hương của Nguyễn Tuấn Thiện vị danh tướng trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh của khởi nghĩa Lam Sơn, của danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hưu Trác với tác phẩm “Y tông tâm lĩnh” nổi tiếng, là quê hương của vị tướng trẻ tài ba Cao Thắng trong phong trào Cần Vương chống Pháp của Phan Đình Phùng và còn nhiều, rất nhiều các danh nhân khác mà tên tuổi và cuộc đời của họ đã làm rạng danh mảnh đất Hồng Lam. Xa xa thấp thoáng dưới bóng mây che phủ sớm chiều là dãy núi Thên Nhẫn nơi có thành Lục Niên (1418 – 1424) của nghĩa quân Lam Sơn, nơi La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp sống ẩn dật. Cảnh sắc ấy, con người ấy đã được bài “Văn thúc ước” khắc hoạ:
“Trước Tùng Lĩnh nhơn nhơn dăng cánh phượng
Bút văn phong non tháp đôi tầng
Sau La Giang cuồn cuộn uốn lưng rồng
Gềnh ngân đới nước thu đôi ngã
Đất vẹn thu mọi vẽ thanh kỳ
Đời giọt thấy nhiều tài phụ tá”
Khu mộ Tổng bí thư Trần Phú được xây dựng vào tháng 2/2000, hoàn thành vào cuối tháng 4/2004 trong lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh đồng chí (1/5/1904 – 1/5/2004). Nằm ở lưng chừng đồi Quần Hội, mặt hướng về bến Tam Soa, hai bên là xóm làng đông vui trù mật. Đường lên mộ được ốp bằng đá chẻ Thanh Hoá. Phía trước là bức phù điêu bằng đá khắc hoạ những hình ảnh đấu tranh của nhân dân ta từ khi Đảng ra đời như phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930 – 1931), cách mạng tháng 8/1945, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược và hình ảnh quê hương đất nước trên con đường đổi mới. Phần mộ đồng chí ốp bằng đá Granit, phía sau là một bức tường gắn dòng chữ “Hãy giữ vững chí khí chiến đấu” bằng đồng trên nền đỏ. Trên phần mộ đồng chí Trần Phú là Phần mộ hai cụ thân sinh: Thân mẫu là bà Hoàng Thị Cát và thân phụ là ông Trần Văn Phổ. Phía bên phải là phần mộ đồng chí Trần Ngọc Danh (1908 – 1952), người con thứ 8 trong gia đình và là người em đồng chí Trần Phú. Ông Trần Ngọc Danh nguyên là Uỷ viên trung ương Đảng, đại biểu Quốc hội khoá I, là thành viên tham dự Hội nghị Phôngtennơblô năm1946 và là Trưởng phái đoàn đại diện của Chính phủ Việt Nam tại Pháp từ năm 1946 – 1954.
Hàng nămH, khu di tích lưu niệm đồng chí Trần Phú đã đón hàng vạn lượt khách tham quan trong nước và quốc tế về đây dâng hương tưởng niệm và tri ân vị anh hùng dân tộc, người chiến sỹ Cộng sản lỗi lạc, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Trong đó có nhiều đồng chí cán bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng và nhà nước.
Lê Doãn Thắng (Ban quản lý di tích Trần Phú)
VI. Hiện vật tại di tích:
Bảng thống kê hiện vật đền hồ nam
STT |
Tên gọi
|
Chất liệu |
Số lượng |
GHI CHÚ |
1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. 10. 11. 12. 13. 14. 15.
|
Bát hương Cờ phật Hạc Cọc nến Lọ hoa Sắc phong Hòm đựng sắc phong Mâm cổ bồng Kiệu bát cống Đèn thờ Hoá trầm Tượng phật Bàn thờ ảnh Bác Hồ Tế phả làng Phúc Thái |
Đồng§, sứ Vải Sứ Đồng Sứ, đất nung Giấy Gỗ Gỗ Gỗ Nhựa Đồng Sứ, xi măng Gỗ Giấy Giấy
Tổng cộng:
|
03 cái 02 lá 01 đôi 02 đôi 17 cái 06 sắc 03 cái 01 bộ 01 cái 03 cái 02 bộ 12 bức 04 cái 01 ảnh 01 cuốn
59 hiện vật |
1 đồng, 2 sứ
11 sứ, 6 đất nung
1 mâm 6 quả
9 sứ, 3 xi măng
|
VII. Giá trị lịch sử, văn hoá - nghệ thuật:
Di tích lịch sử văn hoá Đức Thọ – những nét khởi thảo
Đức Thọ là mảnh đất địa linh nhân kiệt, giàu truyền thống văn hoá và học hành khoa bảng là quê hương của biết bao học giả, bao bậc hiền tài có công với dân với nước. Nằm ở phía Bắc của tỉnh Hà Tĩnh, trong suốt trường kỳ của lịch sử, huyện Đức Thọ ngày nay đã nhiều lần thay đổi về tên gọi và địa danh. Từ thửa Hùng Vương dựng nước trải qua các thời Tần (246 – 207 TCN), Hán (206 TCN – 220 SCN), Ngô (thế kỷ III), Tấn (thế kỷ III – V), Đức Thọ là vùng đất thuộc huyện Cửu Đức. Thuộc các quận Cửu Châu, Hoan Châu, Nam Đức vào thời nhà Lương (thời Nam Bắc triều 420 – 589), nhà Tuỳ (581 – 619), nhà Đường (681 – 907). Bước sang thời kỳ tự chủ (thời Lý, Trần) Đức Thọ thuộc Phủ /Trấn Nghệ An. Theo cuốn “Nghệ An ký” và “Yên Hội thôn chí” của nhà thơ học giả Bùi Dương Lịch thì: “La Sơn thời Trần gọi là Chi La, thời Minh củng gọi như thế. Thời Lê Sơ đổi là La Giang, đến đời Trung Hưng để tránh tên huý chúa Trịnh Giang nên đổi tên thành La Sơn” .
Thời Nguyễn năm Minh Mệnh thứ 3 (1822), đổi phủ Đức Quang thành phủ Đức Thọ và địa danh Đức Thọ có từ đó đến nay.
Nằm ở trung tâm của xứ Nghệ, châu thổ của dòng sông Lam, sông La, được bao bọc bởi những dãy núi nổi tiếng như Hồng Lĩnh, Thiên Nhẫn và Trà Sơn đã tạo cho Đức Thọ nhiều danh thắng nên thơ hùng vỹ. Từ xưa Đức Thọ đã nổi tiếng là mảnh mầu mỡ, khí hậu ôn hoà, phong tục thuần hậu. Con người hiếu nghĩa tiết tháo, anh dũng kiên cường, giàu truyền thống yêu nước và học hành khoa bảng. Những yếu tố đó đã tạo nên một truyền thống văn hoá đặc sắc của vùng đất này.
Thiên nhiên và con người Đức Thọ, trong suốt quá trình phát triển của lịch sử đã tạo nên một vùng quê hội tụ nhiều di tích lịch sử văn hoá và danh lam thắng cảnh với đầy đủ các loại hình di tích.
Trên bước đường hành hương tìm về cội nguồn lịch sử quê hương, dân tộc. Bước chân qua cầu Đò Trai (nơi giáp ranh giữa thị xã Hồng Lĩnh và huyện Đức Thọ), soi mình bên dòng sông Bán Thuý (còn gọi là kênh nhà Lê), thấp thoáng dưới bóng tán lá những cây đa cổ thụ là đền làng Gia Thịnh xã Đức Thịnh. Đây là một di tích lịch sử văn hoá cổ được xây dựng vào thời Lê Trung Hưng (khoảng thế kỷ XVIII), đời vua Lê Hiển Tông (1740 – 1780). Ngôi đền có hai toà thượng và hạ điện, là nơi thờ tự Tam Lang Đại Vương. Người con trai thứ ba của vua Hùng được sai làm Thần ở sông Bạch Hạc. Theo tín ngưỡng thờ thuỷ thần (thờ rắn, rồng) một trong những tục thờ phổ biến ở nước ta. Trải qua các triều đại, với 9 bản sắc phong còn lưu giữ được thì đền Gia Thịnh trước đây đã từng là một ngôi đền lớn thờ Tam Lang Đại Vương. Một vị Thần mà đến đời Khải Định đã phong lên đến Thượng đẳng Thần (một vị Thần mới được phong lần đầu thì củng thường chỉ là Hạ đẳng Thần, Thượng đẳng Thần nếu là nhân thần thì củng phải là bậc đế vương như An Dương Vương, Triệu Quang Phục… hoặc là tướng lĩnh lừng danh như Uy Minh Vương Lý Nhật Quang – thờ ở đền Quả Sơn, Nghệ An). Được ban rất nhiều mỹ tự và hết lời ngợi ca: “Đức ngài là đấng minh triết dũng lược…anh hùng quả đoán…trên thông tỏ cơ trời mà dẹp được loạn, trừ được tai ương bảo vệ muôn dân …khai dẫn cho đời, phò trợ nước nhà được thái bình…” (sắc Cảnh Hưng), hoặc: “Đức ngài từ xưa tới nay có công hộ quốc bảo dân nổi tiếng linh thiêng cầu ứng…” (sắc Đồng Khánh) .
Trên địa bàn xã Đức Thịnh còn một ngôi đền nổi tiếng khác là đền thờ Ngô Thị Ngọc Dao (còn gọi là đền Đồng Cần). Bà là Quang Phục Hoàng Thái Hậu, người làng Đông Bảng, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hoá. Thửa nhỏ nổi tiếng là người con gái xinh đẹp, nết na hiền thục được đưa vào làm cung phi đời vua Lê Thái Tôn. Sinh ra hoàng tử Lê Tư Thành sau lên ngôi vua lấy hiệu là Quang Thuận rồi Hồng Đức, là một vị vua xuất chúng trong lịch sử thời kỳ quân chủ ở nước ta. Năm 1471, giặc Chiêm xâm lấn bờ cõi Đại Việt. Nhà vua đã tự mình ngự giá thân chinh thống lĩnh ba quân đi đánh giặc có Thái Hậu đi cùng. Chỉ trong một thời gian ngắn quân giặc bị đánh tan. Trên đường trở về kinh thành Thăng Long, lúc đi ngang qua xã Quang Chiêm tổng Hoa Lâm (Đức Thịnh ngày nay) thì Thái Hậu mất. Thương tiếc bà, nhà vua đã sai người chôn cất tại Đồng Cần. Đồng thời để lại một số người thân thích và cấp 100 mẫu ruộng cho quan viên và dân làng Quang Chiêm để lo việc hương khói, thờ phụng hàng năm theo nghi thức quốc gia.
Toạ lạc giữa cánh đồngT, trong một khuôn viên rộng được bao bọc bởi nhiều cây cổ thụ quanh năm xanh tốt. Trong bảng lãng khói sương của những buổi trời chiều hai toà thượng và hạ điện của ngôi đền Đồng Cần uy nghiêm trầm mặc rêu phong cổ kính trông đẹp như một bức tranh thuỷ mặc.
Nằm về phía tây của xã Đức Thịnh là xã Thái Yên, một làng quê có nghề mộc nổi tiếng khắp cả nước còn có chùa Vĩnh Phúc và Đền Thánh Thợ. Chùa Vĩnh Phúc (Vĩnh Phúc thiền tự) Được xây dựng vào thời Hậu Lê (1428 – 1527), thế kỷ XV sau sự thiên di của mẹ con bà Hoàng hậu Bạch Ngọc cùng một số tôn thất nhà Trần đến ở vùng chân dãy núi Cốc và dãy núi Trà Sơn (vùng thượng của huyện Đức Thọ) khai hoang lập ấp với một lòng mộ phật đã góp phần thúc đẩy sự ra đời của rất nhiều ngôi chùa ở trong vùng trong giai đoạn này như: Chùa Am (Diên Quang tự), chùa Tiên Lữ, chùa Ân Quang, chùa Cổ Lộng, chùa Vền (Vạn Phúc tự), chùa Phượng Tường… Nằm ở trung tâm phật giáo phía Nam Đại Việt, chùa Vĩnh Phúc cùng với hệ thống tượng thờ và các giá trị tinh thần lớn lao chứa đựng trong đó như một minh chứng cho tư tưởng từ bi, hỉ xả, bác ái, cứu khổ, cứu nạn của đạo Phật thông qua Tứ diệu đế (khổ đế, nhân đế, diệt đế và đạo đế). Sức lan toả, sự dung hoà giữa đạo và đời đến đây được tiếp tục phát triển ở 1 vùng đất mới như một sự hoằng dương của Phật pháp.
Xét một cách bao quát, Vĩnh Phúc không phải là một ngôi chùa lớn bề thế gắn liền với danh lam thắng cảnh ở một vùng non nước hữu tình. Trong mặt bằng kiến trúc tổng thể, chùa còn thiếu vắng một số đơn nguyên kiến trúc như cổng tam quan, nhà bia, cột kinh, tháp, nhà tăng.v.v Nhưng điểm nổi bật ở chùa Vĩnh Phúc chính là hệ thống tượng và tranh phật được thờ tự ở trong chùa. Lớp tượng Thường Trụ Tam Thế Diệu Pháp Thân (thường gọi là tượng Tam Thế Phật) và lớp tượng Di Đà Tam Tôn cùng một số tượng ở hai bàn thờ hai bên, ở nhà bái đường củng như các bức tranh Phật được thờ ở trong chùa. Các đức Phật này đều có tóc kết xoắn ốc, tay kết tam muội, ngồi kiết già lộ hai bàn chân. Nếu kẻ một đường tròn theo hình của Đức Phật rồi kẻ một đường trung tâm trên đỉnh xuống chúng ta dễ dàng nhận thấy trong trong từng nữa này thì phần lớn nhất là lòng đùi. Nhưng nổi lên giữa lòng đùi trái là lòng bàn chân phải và ngược lại. Trong cách thức này hình khái quát tượng Đức phật đồng nhất với vòng tròn thái cực. Có nghĩa là vòng tròn chia đôi theo một đường hình chữ S cân đối để tạo thành lưỡng nghi tức âm – dương, thì ở phần lớn nhất ở dương – tức thái dương đã xuất hiện yếu tố âm và ngược lại. Đây chính là một bức hình đồ biểu hiện về nguyên lý thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái…khởi đầu của muôn loài. Vì vậy người ta còn gọi tượng ngồi kiết già toàn phần là kiểu ngồi âm – dương. Kiểu ngồi này có khả năng tập trung được tư tưởng vào những yếu nghĩa sâu xa của đạo lý. Đồng nhất với ý nghĩa của hoa sen để nói về âm – dương, lý – trí, phàm – thánh cùng một bản thể, một cội nguồn. Đây là cách ngồi viên mãn vượt qua mọi trở ngại thường tình của cỏi tục. Cách ngồi này còn gắn với việc khai mở các trung tâm lực chính trên cơ thể con người bằng hình tượng bông cúc nở mãn khai nơi trái tim. Tới đây luân xa A na ha ta được khai mở, tu sỹ đạt được phép Tha tâm thông, không cần hành động mà vẫn hiểu được tư tưởng của chúng sinh. Luân xa này khai mở khiến kẻ hành giả phát triển trí tuệ đến mức độ cao và đạt được thánh quả: Tứ đại vô lượng tâm (đại từ, đại bi, đại hỉ, đại xả).
Tóc phật xoắn ốc bao kín nhục kháo và cả đầu là biểu tượng nguồn phát sáng của phật pháp. Từng lọn tóc xoắn là biểu tượng của chử Thánh, như: Đức tự (tượng trưng cho đạo đức cao hơn hết), cát tường tự (tốt lành, minh bạch, rõ ràng hơn hết) và vạn tự (ngọn lửa tam muội làm tịnh tiến thiện căn, diệt trừ dục vọng). Tất cả những vẻ đẹp thiêng liêng của các cụm tóc xoắn hội tụ lại nhằm tạo cho bộ não minh mẫn đạt được khả năng về trí tuệ cao viễn, tiến tới sự giác ngộ.
Các Đức phật ở đây có tai lớn, đỉnh tai cao trên lông mày biểu hiện về quyền uy oai lực của nhà phật, dái tai dài nói lên sự phúc hậu, đại từ, đại bi. Lông mày cong gọi là nguyệt mi tạo nên một vẽ đẹp thánh thiện, hội tụ các dòng hạnh phúc. Đầu lông mày chảy xuống sống mũi, đuôi lông mày che hết mắt biểu hiện về sự trọn vẹn không vướng mắc cuộc đời. Mắt Đức phật khép hờ nhìn xuống hội vào đỉnh mũi như để tập trung tư tưởng trí lực nhằm soi rọi nội quan, tất cả để diệt trừ ma tâm chống sự tà loạn. Mũi Đức phật đầy đặn cân phân ấm áp, sống mũi cao, lỗ mũi tròn, đỉnh mũi không hếch, không khoằm biểu hiện tư thế của người chính nhân quân tử với súc mạnh và trí tuệ từ bi cao hơn hết. Các yếu tố về tóc, tai, mắt mũi đều hướng tới một mục đích là cứu vớt chúng sinh đau khổ khỏi mọi kiếp trầm luân và được hội tụ vào miệng pho tượng. Tượng phật ở đây miệng tương đối nhỏ, phảng phất một nụ cười nhẹ (nụ cười hàm tiếu), thể hiện sự đồng cảm giữa Đức phật và chúng sinh.
Áo cà sa của tượng phật (còn gọi là tăng già lê, phúc điền y, giải thoát phục…) có màu vàng là màu đã giải thoát xa lìa cõi tục ở cuộc đời (còn các tượng có màu vàng ở mặt và chân tay biểu hiện vị phật đó đã ở cõi niết bàn ít gắn với trần gian). Áo cà sa màu nâu giúp cho kẻ hành giả chống được sự kiêu căng ngã mạn để lấy nhẫn làm đầu. áo cà sa chính là thanh y (tâm trong sáng), tỉnh y (tâm yên tỉnh), và nhẫn nhục y (chống lại mọi dục vọng của tham, sân, si, ái, ố, hỉ, nộ), nhờ đó mà mọi sự đều trong sáng tốt lành để bước vào kiếp tu, hướng tới thiện căn và tịnh tiến trong dòng chảy của đạo pháp.
Hội tụ tất cả những yếu nghĩa về đầu, mặt và trang phục như trên thì có thể nói rằng kiếp tu này đã đạt được quả niết bàn nên được ngồi trên toà sen.
Các pho tượng trong hậu cung và nhà bái đường chùa Vĩnh Phúc cùng rất nhiều tranh phật được tạo tácC, thể hiện với một trình độ nghệ thuật thẩm mỹ cao. Bên cạnh những đặc trưng của một pho tượng phật, các pho tượng này dưới đôi tay tài hoa của các nghệ nhân xưa đều toát lên cái phong thái, cốt cách thuần Việt, vừa uy nghi linh thiêng vừa gần gũi. Với màu sắc chủ đạo bằng các chất liệu dân gian truyền thống như: Màu vàng, màu xanh da trời và màu nâu đỏ. Hình ảnh các Đức phật ngồi trên toà sen (ngoại trừ một bức của Đường Tam Tạng) chùa Vĩnh Phúc được các hoạ sỹ thể hiện theo một lối vẽ phóng khoáng (lối vẽ phóng bút). ống tay áo rộng, bờ vai xuôi, tà áo dài lượn theo hình sóng, cánh hoa sen mềm mại cùng những đám tinh vân cách điệu bao quanh Đức phật là những nét đặc tả với nét vẽ mềm mại, uyển chuyển tinh tế, giàu tính nghệ thuật và xúc cảm thẩm mỹ cao.
Phần lớn các tượng phật chùa Vĩnh Phúc đều được tạc bằng gỗ mít (theo quan niệm nhà phật, mít là cây gỗ thiêng nơi hội tụ của phật, pháp và tăng). Ngoài những tư tưởng triết lý, nhân sinh quan thấm đẫm tư tưởng phật giáo thì mỗi một pho tượng, bức tranh ở đây còn là một công trình điêu khắc, mỹ thuật hoàn hảo mà các nghệ nhân nhân xưa đã gửi gắm bằng tất cả tâm hồn tình cảm và ước nguyện của mình. Trải qua bao sự biến thiên thăng trầm của lịch sử, dưới lớp bụi thời gian những tư tưởng cao cả của đạo phật vẫn sáng lấp lánh hướng tâm hồn, tình cảm con người tới những giá trị Chân – Thiện – Mỹ.
Đền Thánh thợ Thái Yên thờ tiên sư Lỗ Ban (ông tổ nghề mộc), đền nằm trên một mãnh đất cao ráo bằng phẳng ở đầu làng. Là một công trình kiến trúc nghệ thuật đẹp và khá đồ sộ, gồm có ba toà: Hạ, trung và thượng điện. Ngôi đền như một bảo tàng nghệ thuật điêu khắc gỗ, là dấu ấn bàn tay lao động của các nghệ nhân qua nhiều thế hệ của một làng mộc cổ truyền nổi tiếng.
Đặc trưng của nghệ thuật kiến trúc đền Thái Yên là kiến trúc đình, đền truyền thống từ bố cục không gian đến bài trí nội thất. Độc đáo và giá trị nhất là nghệ thuật điêu khắc chạm trổ bằng kỷ thuật chạm lộng và chạm bẹt. Từ kết cấu kiến trúc đến các hoạ tiết hoa văn như phù điêu, long kiệu, hương án, lư hương, bài vị, long ngai, tượng ông phỗng cùng các đồ tế khí như long đao, chân đèn, kiếm, đại đao… đến các mảng chạm trổ trên xà cổn, đầu kẻ, hòn kê, ván thưng …với các đề tài tứ linh (long, ly, quy, phương), mây, lữa, hoa, lá … đều được chạm kín nhưng nhìn không rối mắt. Nét chạm chắc khoẻ mà không thô, phong khoáng bay bướm mà không cẩu thả. Trong tổng thể kiến trúc thỉnh thoảng chúng ta bắt gặp những khoảng trống đó là những chổ “nghỉ mắt”, là khoảng trống “hữu thức”. Điều đó càng cho thấy tư duy thẩm mỹ cao của các nghệ nhân làng mộc cổ truyền danh tiếng.
Ngoài kỷ thuật bào ghép, tạo dáng chắc khoẻ của phong cách nghề mộc Thái Yên, các chi tiết chạm trổ trong ngôi dền đều lấy chủ đề từ các điển tích xưa với phong cách dân gian rõ nét. Hổ giắt răng, rồng đau mắt, tích ông Biểu Thức, tích Thuấn canh lịch sơn, Hứa Do tẩy nhi, nhị thập tứ hiếu, chàng trai đi tìm măng trái mùa ngồi bên bụi tre khóc để măng mọc lên hái về dâng cha mẹ ăn … Ngoài ra còn rất nhiều đề tài hoa lá như hoa cúc, hoa mua, hoa sen, hay tích tam điểm (ba loài cây: Đào, lê, lựu). Đề tài động vật ngoài tứ linh còn có long mã, cá chép, hươu nai, chim hạc … Đồ tế khí trong nhà thờ có nhiều loại hình với số lượng và giá trị lớn. Đó là hai quả chuông đúc nổi chữ Thái Yên, cho đến các bộ long đao, bát bảo, bửu tượng, quy hạc, các lư hương chạm bằng gỗ quý, các bộ long kiện, long ngai, bài vị, kiếm, mũ, hia của thần … tất cả đều thể hiện rỏ tài năng và tư duy thẩm mỹ của các nghệ nhân qua nhiều thế hệ làng mộc Thái Yên.
Ngoài nghệ thuật chạm trổ điêu khắc điêu luyện, đền Thái Yên còn là nơi bảo lưu nghệ thuật sơn then, mạ vàng các bức chạm và nghệ thuật vẽ sơn trên ván gỗ ở trần nhà, các bức bình phong và các tấm ván cửa. Đền Thái Yên xứng đáng là một bảo tàng điêu khắc chạm trổ cổ vật nổi tiếng đất Hồng Lam.
Nằm ở phía đông của huyện Đức Thọ, xã Yên Hồ thời Trần có tên là Bà Hồ, đời Lê gọi là Bình Hồ. Thời Tây Sơn vào khoảng những năm 1789 – 1790 để tránh tên huý của vua Quang Trung (Nguyễn Huệ tên thật là Nguyễn Văn Bình) nên đổi từ Bình Hồ thành Yên Hồ. Là kinh đô của nhà Hậu Trần (1407 – 1413), Yên Hồ còn là đất học hành khoa bảng vào loại sớm nhất ở Hà Tĩnh. Từ thế kỷ thứ XIII đã có Đào Tiêu đậu trạng nguyên năm ất hợi đời trần Thánh Tông, niên hiệu Bảo Phù thứ 3 (1275) và Đoàn Xuân Lôi đậu khôi nguyên năm Giáp tý đời Trần Phế Đế, niên hiệu Xương Phù thứ 8 (1383). Tiếp đó có Nguyễn Biểu đậu Thái học sinh vào cuối thế kỷ thứ XIV, làm quan đến Điện tiền Ngự sử thời Hậu Trần. Thời Lê – Nguyễn, Yên Hồ lại có nhiều người đậu đại khoa như Tiến sỹ Phạm Nại (1462 - ?) khoa Đinh mùi (1487), Tiến sỹ Nguyễn Phong (1559 - ?) khoa Quý mùi và Tiến sỹ Lê Đắc Toàn (1622 – 1675) khoa Nhâm thìn (1652).
Nằm khiêm nhường bên cạnh con đường liên thôn nối liền quốc lộ 8A và đê La Giang vắt ngang qua cánh đồng xã Yên Hồ là nhà thờ Lê Đắc Toàn. Nơi thờ tự vong linh tiên tổ dòng họ Lê Đắc và Tam giáp đồng Tiến sỹ xuất thân Lê Đắc Toàn. Ông tên thật là Lê Vĩnh Đích, sinh năm Nhâm Tuất, đời vua Lê Thần Tông (lần thứ nhất), niên hiệu Vĩnh Tộ năm thứ 4 (1622). Thân sinh là cụ Lê Vĩnh Mệnh, thân mẫu là bà Lương Thị Lữ xã Bình Hồ, huyện la Sơn. Nay là xã Yên Hồ, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
Vốn có tư chất thông minh lại giàu nghị lực, mặc dầu gia cảnh gặp nhiều khó khăn nhưng ông vẫn kiên trì học tập và đậu Sinh đồ tại kỳ thi hương năm Kỷ Sửu đời vua Lê Chân Tông (1634 – 1649), niên hiệu Phúc Thái lần thứ 16 (1649). Đến năm Canh Mão đời vua Lê Thần Tông (1649 – 1662), niên hiệu Khánh Đức năm thứ 3 (1651) đỗ đầu kỳ thi hương và đến năm Nhâm Thìn (1652), thì ông đậu Tam giáp đồng Tiến sỹ xuất thân. Khi đó ông tròn 31 tuổi.
Sinh ra và lớn lên trong thời tao loạn, bên cạnh ngôi vua (là bậc chí tôn theo quan điểm của nho gia), còn có phủ chúa cùng sự phân tranh về quyền lực và lãnh thổ giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài làm đảo điên mọi trật tự trong một xã hội được xây dựng trên nền tảng của Nho gia đã có hàng ngàn năm tồn tại và phát triển. Lê Đắc Toàn làm quan trải qua ba đời vua thời Hậu Lê là: Lê Thần Tông (1649 – 1662 lần thứ 2), Lê Huyền Tông (1663 – 1671) và Lê Gia Tông (1672 – 1675). Lần lượt giữ các chức: Cẩn sự lang giám sát ngự sử bậc dưới đạo Hải Dương. Chỉ một năm sau ông được phong tước Nam và thăng lên chức Thanh Hoá hiến sát sứ ti bậc dưới. Đến năm Cảnh Trị thứ 2 (1664), sau khi mãn tang mẹ Lê Đắc Toàn được thăng Đô cấp sự trung Binh khoa. Năm Cảnh Trị thứ 7 (1669) ông được bổ nhiệm làm Thừa chính sứ ti, Tham chính phúc khê nam, cấp bậc Lang trung Hộ khoa, đồng thời được phong lên tước tử. Đến năm Dương Đức thứ nhất, ông lại được phong chức Đô ngự sử đài kiêm Đô ngự sử chức. Như vậy, sau 21 năm làm quan dù ở cương vị nào dù là Giám sát ngự sử bậc dưới ở một đạo hay Đô cấp sự trung của một khoa và Thiêm đô ngự sử hoặc đi sứ sang Trung Quốc (thời Minh), ông luôn được nhà vua và triều thần trọng dụng, đánh giá cao về tài năng và đức độ là: “…người có tâm thuật, tài năng giúp việc”, “hoàn thành tốt nhiệm vụ…” nên sau khi ông mất triều đình thương xót truy tặng phong cho ông chức Tả thị lang Bộ công và được các vua đời nhà Nguyễn phong lên hàng Phúc thần (từ Hạ đẳng thần lên Trung đẳng thần), giao cho xã Yên Hồ bốn mùa thờ phụng theo nghi thức quốc gia.
Nhà thờ có mặt bằng kiến trúc hình chữ đinh ( ), gồm hai toà thượng và hạ điện. Nơi đây còn lưu giữ được 12 bản sắc phong cổ và một bài thơ bằng chữ hán khắc gỗ của Hoàng Giáp Hồ Ngọc Phong, nội dung như sau:
Phiên âm: “Tư lưỡng khôi nguyên hậu
Bình Hồ tứ khí chung
Đằng vân đăng giáp đệ
Cựu vũ điển cừ hung
Nam hưởng ôn nhân đạt
Bắc trì cống khoản thông
Đại danh thuỳ khẩn ngoại
Kình tiết trọng triều trung
Mông tặng song thân hiển
Lưu khanh hậu duệ hồng
Thiên thu hương hoả tự
Nghiễm nhược kiếm di dung
Ngọc Phong Hồ Hoàng Giáp phụng toản
Tự Đức Tân tỵ trùng thuyên”
(Dịch nghĩa: Thi hương và thi hội đều đỗ đầu
Bình Hồ là nơi hội tụ tốt lành
Văn: Đứng ở bậc thứ cao
Võ: Thao lược biết địch, biết ta
Việc trong nước (Nam) tinh thông
Đi sứ sang Bắc (nước Minh) giỏi giang
Tiếng tăm ra tận mãi ngoài
ở trong nước càng thêm trọng vọng
Trước là để biết ơn cha mẹ
Sau là lưu điều mừng lớn cho con cháu
Nghìn năm khói hương thờ phụng
Như thấy dung nhan nghiêm trang còn đó
Hoàng Giáp Hồ Ngọc Phong vâng soạn
Khắc lại năm Tân tỵ triều Tự Đức – 1881)
Toạ lạc trong trong vườn cây xanh tốt giữa trung tâm xã Yên Hồ là đền thờ Nghĩa vương Nguyễn Biểu, mà các sử sách xưa thường gọi là “miếu cổ Bình Hồ”. Về thân thế Nguyễn Biểu: Ông quê ở xã Bà Hồ, huyện Chi La, đỗ Thái học sinh đời Trần, đã từng theo giúp vua Trùng Quang nhà Hậu Trần từ những ngày đầu mới lên ngôi, tính tình thẳng thắn, dám nói sự thật nên được phong chức Điện tiền thị Ngự sử. Về cái chết của ông theo cuốn “Đại Việt sử ký toàn thư – quyển 4”, viết “Mùa hạ, tháng 4 năm Quý tỵ – 1413 bọn Trương Phụ nhà Minh đánh vào Nghệ An vua chạy vào Châu Hoá, sai đài quan là Nguyễn Biểu làm sứ cầu phong, mang sản vật địa phương đến Nghệ An. Trương Phụ giữ lại Biểu tức giận mắng rằng làm quân nhân nghĩa, đã hứa lập con cháu nhà Trần, lại đặt quận huyện, không chỉ cướp châu báu vàng bạc, lại còn giết hại dân sinh, thật là giặc tàn ngược, Phụ giận lắm đem giết”. Trong cuốn “Nghĩa sỹ truyện của Hoàng Trừng” chép việc này khá tỷ mỷ, trở thành một huyền thoại về tấm lòng trung quân ái quốc, bất khuất trước kẻ thù của ông “…khi Nguyễn Biểu lên đường vua Trùng Quang có bài thơ đưa tiễn, tỏ lòng tin cậy ở vị sứ giả của mình, và hy vọng “Việc nước một mai công ngõ vẹn, Gác lân muôn tiếng dõi lâu xa”. Nguyễn Biểu đã hoạ lại thơ vua khiêm tốn nói: “Hổ mình và thiếu tài chuyên đối”, nhưng củng tỏ bày lòng trung thành và quyết tâm “dịch lộ ba nghìn dặm ngại xa” . Tiện đường ông ghé về thăm nhà, bái yết tổ tiên, sắm sữa đồ lễ rồi mới sang Lam Thành. Đến dinh Trương Phụ bị hạch sách vặn hỏi, Nguyễn Biểu không đổi sắc mặt, đối đáp cứng cỏi, phụ tỏ ý nể, lưu lại đãi cơm. Khi nhìn thấy mâm cơm có chiếc đầu người luộc chín, biết Phụ định uy hiếp mình, ông thản nhiên nói: “A! người Nam lại được ăn đầu người Bắc”, rồi cầm đũa móc hai con mắt chấm tương ăn. Xong bữa tiệc kỳ quái này ông còn đọc bài thơ “Ăn cổ đầu người’. Trương Phụ hay tin cảm phục đối xử tử tế, rồi cho về. Nhân đó Phụ hỏi tên hàng thần Phan Liêu: “Nguyễn Biểu là người thế nào”. Liêu vốn là người có hiềm khích với ông, bèn nói: “Người ấy là hào kiệt ở An Nam, ngài muốn lấy nước Nam mà không có người này sao được”. Phụ sai người bắt ông lại nhằm mua chuộc, uy hiếp. Nhưng khi Nguyễn Biểu bị dẫn tới trước mặt Trương Phụ, hắn bắt ông lạy, ông vẫn đứng thẳng, không hề run sợ. Phụ mắng ông vô lễ, ông bèn vạch âm mưu và tội ác của giặc. Phụ tức giận sai quân đưa ông ra trói dưới chân cầu Yên Quốc (tức cầu Lam, một nhánh sông Lam chảy giữa hai làng Vệ Chánh và Quang Dụ xưa), cho nước lên dìm chết. Ông lấy móng tay vạch vào cột cầu tám chữ: “Thất nguyệt, sơ nhất nhật, Nguyễn Biểu tử” (ngày mồng một, tháng bảy, Nguyễn Biểu chết), tức ngày 28/7/1413. Nhưng ba ngày liền nước thuỷ triều không lên tới nơi, trong suốt ba ngày đó ông chửi giặc không ngớt. Phụ cho rằng ông được thần phù trợ, bèn sai bắt đưa về trước chùa Yên Quốc đánh chết. Mặc dù giết chết ông nhưng Trương Phụ vẫn khính phục nghĩa khí, bèn cho người đem thi hài ông về mai táng ở quê nhà. Trước đền thờ hiện nay còn có lăng mộ”.
Được tin Nguyễn Biểu mất vua Trùng Quang hết sức thương xót, sai làm văn dụ tế. Nhà sư chùa Yên Quốc củng bài văn làm lễ cầu siêu cho ông (hai bài này hiện nay vẫn còn, chép sau bài “nghĩa vương ký” lưu tại nhà thờ họ Nguyễn ở Yên Hồ). Đền hiện nay còn lưu hai tấm bia đá. Một tấm ghi thân thế sự nghiệp và bài minh ca tụng đề ngày mồng 2/5 năm Tự Đức thứ 28 (15/6/1875) do Cử nhân Hoàng Xuân Phong soạn văn bia. Tấm bia thứ hai do nhân dân hai thôn Nội Diên và Yên Phúc xã Yên Hồ dựng. Văn bia đề ngày 8/10 năm Tự Đức 30 (12/11/1877) do Cử nhân Lê Viết Huy nhuận sắc. Ngoài thân thế, sự nghiệp Nguyễn Biểu, nội dung tấm bia còn ghi rõ thời gian ông được phong tặng Thần vị và việc thờ tự qua các thời đại.
Thời Lê, đời vua Lê Thánh Tông, niên hiệu Hồng Đức, vua sai người lập miếu thờ Nghĩa sỹ ở Bình Hồ, ban ruộng tế và cho lấy dân trong sở tại một Lễ lang và hai Thừa tự, trông coi việc thờ cúng đồng thời giao cho Trấn quan mỗi năm một lần về tế lễ.
Về sau tuy không còn lệ “quốc tế”, nhưng hơn 300 năm qua nhân dân xã Yên Hồ vẫn luôn thờ phụng Nghĩa Vương như là một vị Thành Hoàng của làng. Ngôi đền được bảo vệ, trùng tu thường xuyên. Đến nay ngôi đền gồm ba toà nhà lợp ngói âm dương, lát gạch. Cổng vào đền là hai cột trụ biểu cao, phía trong có hai tấm bia đá. Trong ba toà đền, ngoài kiệu, hương án và nhiều đồ thờ tự khác còn rất nhiều biển gỗ khắc thơ “ngự chế” của Hoàng Trừng và nhiều đối liễn của nhân dân địa phương, quan viên và các nhà khoa bảng.
Ngôi đền đã trở thành một biểu tượng thiêng liêng của những người trung nghĩa “Văn phong năng khởi sỹ phu tâm” (nghe đến tiếng tăm của Ngài, lòng sỹ phu phải dấy động – Lê Lai Yến). Niềm tự hào qua nhiều thế hệ của người dân nơi đây.
Bên kia dòng sông Đò Hào thuộc xã Đức Vĩnh là đền thờ Chiêu Trưng, nơi thờ tự và tri ân Chiêu Trưng Đại Vương Lê Khôi, vị khai quốc công thần triều Lê. Ông là người cháu ruột của vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi), là một trong những vị danh tướng đầu tiên tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và đã lập được nhiều chiến công hiển hách. Sau khi khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi (1427), ông tiếp tục cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp trung hưng khôi phục đất nước, giữ yên bờ cõi, chăm lo đời sống của nhân dân.
Đền thờ chính và mộ phần của ông đặt tại núi Long Ngâm, dãy Nam Giới thuộc địa phận xã Thạch Bàn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1446, sau khi đi đánh Chiêm Thành thắng lợi trở về ông đã bị bệnh mất rồi được an táng tại đây. Triều đình và nhân dân thương tiếc xây dựng đền thờ, hàng năm đến ngày huý nhật của ông thì cử quan về tế lễ.
Năm Tân tỵ, niên hiệu Dương Hoà thứ 7 (16410, đời vua Lê Thần Tông, quan Hữu ty thấy đền nằm sát bờ biển, sóng to gió lớn bất thường có thể gây trở ngại cho việc tế lễ nên tâu xin nhà vua cho dời đến địa điểm mới ở địa phận thôn Nguyên Phúc xã Triều Khẩu (huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An), phía dưới Lam Thành để tiện cho việc tế lễ. Đền này về sau giao cho nhân dân ba thôn Phúc Xuyên, Quang Du và Hưng Phúc xã Triều Khẩu thờ phụng. Đến cuối thế kỷ thứ XIX, đất các làng Quang Dụ, Hưng Phúc bị xói lỡ xuống dòng sông Lam. Dân hai làng phải dời sang định cư ở bờ phía nam, lập làng và dựng lên một ngôi đền mới để thờ phụng. Đền Chiêu Trưng xã Đức Vĩnh hiện nay được lập nên từ đó.
Chiêu Trưng Đại Vương Lê KhôiC, sinh vào khoảng những năm cuối thế kỷ thứ XIV, tại làng Lam Sơn, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá. Ông là con của Lê Trừ (người anh trai thứ hai của Lê Lợi). Năm 1418, Lê Lợi tế cáo trời đất, phất cao ngọn cờ nghĩa chống quân xâm lược nhà Minh, “Lê Khôi là một trong những người đầu tiên đứng dưới ngọn cờ khởi nghĩa của Lê Lợi”, ông tham gia nhiều trận đánh lớn và lập được rất nhiều chiến công “mình đeo bên tả túi tên, bên hữu túi cung, theo vua hàng trận, công lao rực rỡ” (Lịch triều hiến chương loại chí – Phan Huy Chú). Đặc biệt trong hai trận quyết chiến chiến lược là trận Khả Lưu - Bồ ải và trận Xương Giang. Sách “Lịch triều hiến chương loại chí” chép: “…Bọn Lê Sát, Lê Lễ, Lê Vấn, Lê Nhân Chú, Lê Ngân…Lê Khôi tranh nhau lên phía trước phá quân giặc, chém đầu giặc không sao kể xiết. Thuyền giặc trôi ngổn ngang, xác chết đuối ngẹn tắc cả khúc sông, khí giới vất đầy cả rừng núi, bắt sống đô đốc Chu Kiệt, chém tướng tiên phong Hoàng Thành, bắt sống hàng ngàn tên giặc…”, với chiến thắng đó nghĩa quân đã tiêu diệt được một lực lượng lớn quân giặc, đẩy chúng vào thế bị động trên chiến trường. Trong trận đánh quân tiếp viện nhà Minh do An viễn hầu Liễu Thăng làm Tổng binh tại cánh đồng Xương Giang “Các tướng Lê Khôi, Nguyễn Xí, Phạm Vấn, trương Lôi được lệnh đem theo quân tinh nhuệ và voi chiến tiến lên Xương Giang” (Đại cương lịch sử Việt Nam) và “Ông (tức Lê Khôi) cùng Phạm Vấn đem vài nghìn binh giáp cùng Lê Sát đánh tan Thôi Tụ (là Hữu tướng Đô đốc), Hoàng Phúc (Thượng thư bộ Công) ở Xương Giang, bắt sống Tụ, Phúc và mấy vạn quân địch, khôi phục lại Đông Đô” (Lịch triều hiến chương loại chí).
Khởi nghĩa lam Sơn thắng lợi, Lê Lợi lên ngôi vua mở ra một triều đại mới, phát triển huy hoàng trong lịch sử dân tộc. Tháng 12/1428, triều đình định công ban thưởng cho các tướng lĩnh có công lao, Lê Khôi được ban Kỳ lân hộ vệ tướng quân, quyền Hành quân tổng quản, hàm Nhập nội thiếu uý, sau thăng đến Nhập nội tư mã rồi Đô đốc, được tham dự triều chính và ban cho tước Hầu. Đồng thời dựng bia khắc tên các vị khai quốc công thần trong đó có Lê Khôi.
Năm 1443, ông được cử vào trấn thủ Thuận Hoá là vùng đất phía nam Đại Việt, bằng tài năng và uy đức của mình ông đã góp phần giữ yên bờ cõi, ổn định tình hình, chăm lo đời sống của nhân dân. Củng trong năm này, ông đã cùng quân triều đình dẹp tan cuộc nổi loạn của Bế Khắc Thiện và Nông Đắc Thái được nhà vua tặng kim phù và áo bào. Năm 1443, đời vua Lê Nhân Tông ông được điều vào làm Đốc trấn Nghệ An. Ông đã cùng nhân dân khai hoang lập ấp, đắp đê dọc hai bờ sông Lam, sông La, miễn giảm sưu thuế, phát triển kinh tế. Năm 1446, ông cùng Đô đốc Lê Khả sau khi chinh phạt Chiêm Thành, trên đường chiến thắng trở về đã lâm trọng bệnh rồi mất.
Đền Chiêu Trưng hiện nay được xây dựng lại khá bề thế trên nền đất củ (ngoại trừ cổng tam quan), là điểm du lịch văn hoá tâm linh của đông đảo quần chúng nhân dân vùng hạ Đức Thọ và các xã phía nam của huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Dọc theo triền đê La Giang là một vùng đất nổi tiếng về học hành khoa bảng, đó là xã Trung Lễ. Theo truyền ngôn thì địa danh Trung Lễ được ghép từ hai chuẩn mực của nho gia đó là “trung” và “lễ”. Theo một số thư tịch cổ vùng đất này được khai phá từ thời Đinh “Duyên xưa đất lập từ thời Đinh” (Lê Trọng Đôn). Là mảnh đất đậm đặc các di tích lịch sử văn hoá - danh nhân và truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Tương truyền vào đời Trần đông đảo nhân dân Trung Lễ đã theo vua Trần Trùng Quang về tựu nghĩa dưới cờ Bình Định Vương ở núi Phù Lê. Nhưng nổi tiếng nhất là cuộc khởi nghĩa của nhân dân Trung Lễ trong phong trào Cần vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX.
Tháng 8/1885, nhân dân Trung Lễ phụng chiếu chỉ của vua Hàm Nghi đứng lên chống Pháp. Cậu ấm Ninh (tức Lê Ninh) được thân hào và dân chúng cử ra chỉ huy cuộc khởi nghĩa. Đại đồn Trung Lễ đóng tại xóm Đình và một phần xóm Ràn. Quân khởi nghĩa lúc đông nhất lên đến 1000 người “phu ở ngoài bất tính, chỉ tính được một nghìn” (vè ấm Ninh hạ thành Hà tĩnh), tổ chức thành cơ, vệ, chia làm 5 đạo: Tiền, hậu, tả, hữu và trung quân. Đại đồng đóng giữa, các xóm khác đều có đồn nhỏ bố trí theo phép ngũ liên, đồ pháp trận (theo binh pháp xưa). Quân phục có áo thâm, khăn ngại (xanh lục), vũ khí là giáo, gươm, côn, súng khai phục và súng cò máy đá. ở gần đại đồn có lò rèn khí giới, các nhà giàu trong làng trong xã xuất lúa nuôi quân, đóng tiền mua sắm quân trang, quân dụng. Nghĩa quân luyện tập ngày đêm ở đồng Dăm đầu làng, lập trường bắn súng.
Đầu tháng 11 năm 1885, nghĩa quân xuất phát từ đại đồn theo đường núi tiến quân vào hạ thành Hà Tĩnh với các cánh quân của các sỹ phu Nguyễn Thoại (Hương Khê), Nguyễn Chanh, Nguyễn Trạch (Can Lộc) … đã nhanh chóng hạ thành Hà Tĩnh thu toàn bộ khí giới, lương thực, voi ngựa. Bố chánh Lê Đại theo giặc bị nghĩa quân xử tử. Ngày 22/11/1885, nghĩa quân Trung Lễ tiếp viện cho nghĩa quân Phan Đình Phùng tấn công vào Định Trường (Đức Yên) đánh thị uy. Bọn phản động được quân Pháp từ Vinh kéo vào giúp sức, lực lượng địch đông nghĩa quân đành rút về đại đồn. Ngày 26/11/1885, giặc Pháp đánh vào Trung Lễ, nghĩa quân kháng cự quyết liệt, nhưng do súng đạn của nghĩa quân không sát thương được quân địch cách 200 m trở lên nên lính giặc đánh thốc vào đại đồn. Hàng ngũ nghĩa quân rối loạn, gần tối Lê Ninh tập hợp quân bản bộ rồi theo đường núi lên Bạch Sơn (gần Truông Mèn – Hương Sơn) xây dượng căn cứ mới. Hai năm sau Lê Ninh mất, Trần Cáp thay Lê Ninh chỉ huy nghĩa quân, liên lạc với nghĩa quân Nguyễn Chanh, Nguyễn Trạch lập căn cứ ở rú Xanh (Can Lộc) và liên lạc với nghĩa quân Cao Thắng ở Thượng Bồng Vũ quang. Từ năm 1890, phong trào Cần Vương ở Trung Lễ hoạt động công khai. Trần Cáp được phong làm Lãnh binh chỉ huy quân Lễ Thứ. Lực lượng đã có trên 150 tay súng thường xuyên chặn đánh những toán quân tuần tiểu lẻ tẻ của quân Pháp mà trận đánh nổi tiếng nhất là trận Đồng Đằng. Từ năm 1895, phong trào duy Tân ở Hà Tĩnh suy yếu dần. ở trung Lễ, hoạt động Cần Vương củng đi dần vào thoái trào và chấm dứt hoàn toàn vào năm 1897 khi các thủ lĩnh Cần Vương của làng là ông Trần Cát bị giặc Pháp bắt và bị xử tử, nhường bước cho những phong trào yêu nước, cách mạng tiếp theo như Duy Tân, Đông Du, Phục Việt, Hưng Nam và Tân Việt.
Nằm về phía Đông của xã Trung Lễ là xã Đức Thuỷ, nơi có di tích lịch sử văn hoá và kiến trúc nghệ thuật đền Voi Mẹp. Theo truyền thuyết dân gian, đầu thế kỷ XV, sau khi giặc Minh sang xâm lược nước ta hưởng ứng theo ngọn cờ nghĩa của vua Trần Trùng Quang nhân dân khắp vùng thừa tuyên nghệ An đã đứng lên chống giặc cứu nước trong đó có người nữ tướng mà tục truyền gọi là “nữ tướng Châu Chấu”. Sau khi bà mất, để tưởng nhớ công ơn của vị anh hùng dân tộc, nhân dân vùng kẻ Ngù (Đức Thuỷ) đã xây dựng đền thờ để ghi nhớ công đức.
Đền Voi Mẹp nằm trên một mãnh đất bằng phẳng, cao ráo bao quanh bởi nhiều cây cổ thụ xanh tốt, trước mặt là dòng sông Trúc, xưa có chợ Chùa sớm hôm thuyền bè xuôi ngược. Là một trong những thắng cảnh đẹp nổi tiếng trong vùng đã được nhà chí sỹ yêu nước Phan Văn Huân vịnh bài thơ:
“Trước mặt sông song muôn vẽ bày
Năm qua xuân kém đẹp xuân này
Ruộng cày, giếng nước lề xưa đó
Quán rượu phòng trà cảnh mới đây
Hói cũ thuyền xưa hàng bán chạy
Cây cao bóng mát khách ngồi đây
Người làng gặp gỡ xưa nay ít
Giấc mộng quê nhà chẳng chút khuây”
Đền có mặt bằng kiến trúc hình chữ tam ( ), phía trước đền là đôi cột nanh lớn đứng uy nghi sừng sửng. Ba toà thượng, trung và hạ điện bằng gỗ lim lợp ngói mũi hài được chạm trổ công phu rêu phong cổ kính. Nổi bật trong kiến trúc của ngôi đền là nghệ thuật chạm khắc gỗ với các đề tài dân gian truyền thống như: Rồng chầu, phượng ngậm cuốn thư, rùa ngậm đài sen, cúc leo, lá đề, hươu, nai…bố trí trên các đường xà, hạ, ván thưng, hòn kê…và các kết cấu kiến trúc khác từ cổng tam quan đến thượng điện. Được tạo tác, thể hiện một cách sống động và tinh tế, với đôi bàn tay khéo léo những người nghệ nhân xưa đã thổi hồn vào đây những tác phẩm điêu khắc đầy sức sống. Nếu quan sat kỹ, ta thấy ngay từ ngoài vào trên bộ vì gỗ nhà tam quan các hình rồng phượng được chạm khắc quyện chặt vào nhau chạy dài trên đôi quá giang, điểm vào đó là hình hoa lá. Các nét chạm vừa uyển chuyển, mềm mại, liên hoàn, nửa kín nửa hở như hai con rồng trên đường xà thượng điện, phần đầu được chạm nổi nhô lên trên nền đài sen và hoa cúc, còn phần thân và phần đuôi được hoà quyện trong tổng thể của kiến trúc với một bố cục không gian hợp lý. Các hoạ tiết thường được chạm sâu làm quyện chặt, liền mạch các đề tài trang trí, nếu quan sát phiến diện thì thật khó phân biệt từng đề tài riêng lẻ. Trong các mảng đề tài còn có những chi tiết phụ để tôn thêm vẻ trng nghiêm và sinh động nhưng không rối mắt như dây leo, dao mác… ở trung điện trên các đường xà đỡ mái, người thợ đã lợi dụng độ dài để tạo bốn đầu rồng đang vươn cao nhô lên, nhìn từ xa trông như những con rồng đang chầu vào nhau.
Bằng nghệ thật chạm khắc điêu luyện, bố cục điêu khắc được phân bố một cách cân đối hài hoà những người nghệ nhân xưa đã góp phần nâng nghệ thuật chạm khắc gỗ lên đến đỉnh cao, làm phong phú thêm kho tàng kiến trúc đình, đền, chùa Việt Nam những giá trị không nhỏ, là di sản văn hoá quý báu trong bản sắc văn hoá truyền thống dân tộc.
Toạ lạc trên một gò đất nhỏ, dưới bóng cây cổ thụ giữa cánh đồng xã Đức lâm là chùa Hoa Lâm. Theo truyền thuyết dân gian, vào năm Hồng Đức thứ 10 (1470), sau khi chiến thắng Chiêm Thành trên đường ca khúc khải hoàn trở về kinh thành Thăng Long đoàn quân do vua Lê Thánh Tông thân chinh dẫn đầu đã cho thuyền dừng lại bên bờ sông Bán Thuý lên đây vãn cảnh, thắp hương lễ Phật. Thấy quang cảnh vắng vẽ hoang tàn nhà vua đã xuống chiếu cho quan lại và nhân dân địa phương đóng góp tiền của trùng tu xây dựng lại ngôi chùa. Nhân sự kiện đó nhân dân mới đổi tên thành chùa “Hoa Lâm Ngự Tự”.
Là một ngôi chùa cổ xuất hiện vào loại sớm ở vùng Đức Thọ, ngôi chùa do công chúa Vương Mỹ Ngọc con gái vua Trần Trùng Quang xây dựng vào đầu thế kỷ XV (khoảng 1409 – 1413), trong lúc thăm thú dạo chơi vùng đất Chi La, khi đi qua đây thấy đất nơi đây có thế “rồng chầu hổ phục” bèn tâu xin vua cha cho xây dựng một ngôi chùa lấy tên là Hoa Lâm Tự. Ngược theo dòng chảy thời gian, vào năm 1406, quân minh xâm lược nước ta. Nhà Hồ sụp đổ, một số tôn thất củ của nhà Trần đã vào vùng đất Chi La kêu gọi nhân dân đứng lên khởi nghĩa, xây dựng căn cứ địa ở Bà Hồ (cách Đức Lâm khoảng 2km theo đường chim bay) với một tấm lòng mộ Phật. Trước đây ngôi chùa rất lớn bề thế với hai toà hậu cung và bái đường uy nghi được chạm trổ công phu nhiều hoạ tiết hoa văn có giá trị cùng với hơn 150 pho tượng Phật. Sau hơn 600 năm tồn tại, qua những thăng trầm biến đổi của lịch sử ngôi chùa cổ nay đã không còn. Ngôi chùa mới tuy không lớn nhưng vẫn thu hút đông đảo thiện nam tín nữ và nhân dân quanh vùng thương xuyên về đây thắp hương lễ Phật, cầu xin cuộc sống luôn an lạc cát tường.
Một trong những giòng họ nổi tiếng vùng Trường Lưu huyện Can lộc có nhà thờ ở xã Đức Dũng đó là nhà thờ Hàn lâm thị giảng nguyễn Huy Quýnh. Ông là tác giả của các tác phẩm nổi tiêng như: thác lời gái phường vải Tràng Lưu gửi trai phường nón Tiên Điền bằng văn nôm, Ninh công Tây Hồ mạn hứng thi tập, quảng Thuận đạo sử tập và hai bộ sách đã thất lạc là Dần phong văn sao (3 quyển) và Dần phong thi sao (theo Nguyễn thị gia tàng).
Sinh ra và lớn lên trong một vùng đất nổi tiếng học hành và khoa bảng đất Hồng Lam trong một gia đình trâm anh thế phiệt. Thân phụ là Anh liệt đại vương Tả thị lang Nguyễn Huy Tựu. Anh trai là Thượng thư bộ Công, học giả Nguyễn Huy Oánh. Nguyễn Huy Quýnh (1734 – 1785), tự Duy Nham, hiệu Dần Phong, thuỵ là Trung Ý, sinh ngày 19/2 năm Giáp dần, niên hiệu Long Đức thứ 3 (1734). Năm 23 tuổi ông đỗ đầu kỳ thi hương, Đến năm Nhâm thìn (1772) ông đậu Tam giáp đồng tiến sỹ xuất thân được bổ làm Cấp trung Hộ khoa, Giám sát ngự sử xứ Sơn Nam rồi Tham hiệp trong những lần được cử đi dẹp giặc. Với tấm lòng khoan dung, hết lòng vì nước vì dân. Thấu hiểu được nỗi cơ cực của người dân trong những lần đi đánh dẹp, ông đã nhiều lần dâng sớ lên triều đình vạch trần tệ nạn của bọn hào mục ở địa phương “Những hào mục lúc đang điêu tàn, ruộng bỏ hoang liền phá bỏ bờ làm của riêng. Bọn chúng còn ẩn lậu cả công điền công thổ, không nộp thuế” cho nên “Chỉ riêng những dân nghèo thấp kém là phải chịu thuế má, lao dịch ngày một nặng nề, kẻ nghèo thành cùng, kẻ cùng thành phiên lưu, vất vả gian nan càng ngày càng tệ”. Vì vậy ông đề nghị đối với bọn hào mục thì “Xin nhất loạt đuổi về”, đối với binh lính thì phải “khép vào kỷ luật nghiêm, nếu xét không thể dùng được thì cho về cày ruộng, không nên chú trọng vào só lượng mà thả nổi chúng làm hại dân”, “Phải trừ khử được tệ tham nhũng, bớt việc lao dịch, chú trọng đề cao đức tính giản dị (không được hoang phí), không được gây phiền nhiểu và đảm bảo sự ổn định cho nhân dân”. Là người cương trực khí khái, khi triều đình cầu lời nói thẳng ông đã dâng sớ tâu 7 việc cần làm cho dân cho nước, phải soi xét đến tận nơi ở ẩn và lắng nghe lời tâu bày của các sỹ phu… Mỗi lần ông luận giảng ở trường Quốc tử giám, các học trò đều khen ông là “Rương sách của Lai Thạch”
Nhà thờ Nguyễn Huy Quýnh là một di tích chứa đựng nhiều giá trị văn hoá lịch sử to lớn. Đây là một địa điểm để tôn thờ và tri ân một danh nhân của đất nước, danh nhân nối tiếp dòng dõi giòng họ Nguyễn Huy, một giòng họ nổi tiếng về con đường học hành, khoa cử và văn chương. Văn tài của ông chỉ còn lại khoảng 20 câu lục bát nên khó đánh giá thêm gì về ông. Qua hành trạng chúng ta chỉ biết được rằng ông là người đỗ đạt cao, làm quan thanh liêm, cương trực, thẳng thắn và tận tuỵ. Các tác phẩm còn lại cùng một số trích đoạn và điều trần, tấu khải của ông, chúng ta biết về ông là một nhà địa chí với những ký chú, bản đồ tương đối có giá trị. Một cây bút chính luận với lời lẽ xác đáng, chân thực, nhạy bén và là một hồn thơ với những vần thơ đượm chất trữ tình. Cùng với Nguyễn Huy Oánh, hai anh em ông đã tạo thành thế hệ đầu tiên của dòng văn thơ Nguyễn Huy, góp phần vào việc truyền bá đạo học ở đất Hà Tĩnh. Ông xứng đáng là người được hậu thế tôn vinh.
Dưới chân núi Long Mã Phụ Đồ, nơi có cây đa cổ thụ, nước suối trong xanh bốn mùa, núi đồi hùng vĩ, đầm ao sen xưa kia toả hương thơm ngát …đã làm say đắm tâm hồn bao tao nhân mặc khách khi viếng thăm chốn này đó là chùa Tiên Lữ (Tiên Lữ tự) xã Đức Lập. Trong một lần vãn cảnh nơi đây, nhà thơ, học giả Bùi Tồn Trai (Bùi Dương Lịch) đã từng cảm tác:
“Văn minh mở đế hiệu
Thần vật gửi quê ta
Núi Phượng, núi Voi chia cánh
Sông La, Minh hội hà
Cõi Hoan bày pháp tượng
Cửu Đức tự xung hoà
Biết rõ mạch truyền đến
Khe Khổng, núi Ni mà”
Chùa được xây dựng trong khoảng thời gian từ năm 1428 đến 1433, để thờ Phật và hai mẹ con bà Hoàng Hậu Bạch Ngọc và công chúa Huy Chân.
Theo “Nham cảo chùa Am”, Hoàng Hậu Bạch Ngọc tên thật là Trần Thị Ngọc Hào, con gái ông Trần Quang Thiệu (Nhiêu), một thường dân ở làng Tri Bản (Bi Bản) xã Thổ Hoàng. Vua Trần Duệ Tông (1372 – 1377) trong một lần du ngoạn qua vùng phía nam Cổ Đổ (tức Hương Sơn ngày nay) bắt gặp một người con gái có vẽ đẹp sắc nước hương trời, ăn nói đoan trang thuỳ mị nên hạ chiếu tuyển làm cung phi đưa về kinh thành Thăng Long phong làm Bạch Ngọc Hoàng Hậu, sinh ra công chúa Huy Chân (Trần Thị Ngọc Hiền), sau này là vợ của vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi). Năm 1377, sau khi vua Trần Duệ Tông chết ở thành Đồ Bàn (Quy Nhơn Bình Định ngày nay), trước nguy cơ cướp ngôi của Hồ Quý Ly. Hoàng Hậu Bạch Ngọc cùng con gái và một số tôn thất nhà Trần, gia nhân, tuỳ tùng rời bỏ kinh thành tìm về quê hương lánh nạn. Đến dưới chân vùng dãy núi Cốc và dãy núi Trà Sơn thấy đất đai hoang vu, dân cư thưa thớt bèn dừng chân khai hoang lập ấp, chiêu mộ binh sỹ, tích luỹ lương thảo chờ ngày khôi phục cơ nghiệp nhà Trần. Lập thành làng mạc từ Lâm Thao, Hoà Duyệt, Thượng Bồng, Hạ Bồng, Đồng Công, Thượng Nga, Lai Thạch xuống dưới chân dãy núi Thiên Nhẫn mà vùng Đồng Lạc, Hoà Yên là trung tâm trang trại của bà.
Khi Lê Lợi theo kế của Nguyễn Chích kéo quân vào Nghệ An xây dựng căn cứ địa trên dãy núi Thiên Nhẫn. Tướng Bùi Bị tình cờ gặp mẹ con bà Hoàng Hậu Bạch Ngọc liền dẫn về yết kiến nhà vua. Thấy công chúa Huy Chân có nhan sắc, Lê Lợi lấy nàng làm cung phi và dựng điện Phượng Hoàng cho Huy Chân ở. Bạch Ngọc Hoàng Hậu đã hiến cho nghĩa quân tất cả tiền của, lương thảo và trang trại của mình. Sau khi khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, bà xin nhà vua cho xây dựng hai ngôi chùa: Đó là chùa tiên Lữ ở Mỹ Xuyên và chùa Diên Quang (chùa Am) rồi về tu hành ở đó. Công chúa Huy Chân sinh hạ công chúa Trang Từ (Ngọc Châu) rồi củng xin về Chùa Am tu hành cùng với mẹ. Về sau công chúa Trang Từ củng về tu hành ở đây.
Chùa Tiên Lữ cổ nay đã không còn, ngôi chùa hiện nay được nhân dân xã Đức lập cùng với những người có hằng tâm, hằng sản trong vùng góp công, góp của tôn tạo xây dựng lại trong thời gian gần đây. Chùa là một minh chứng cụ thể sống động cho những công lao đóng góp to lớn của Hoàng Hậu Bạch Ngọc trong công cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh. Gắn liền với việc khai hoang lập ấp tạo nên một vùng dân cư rộng lớn trù phú cùng với sự phát triển của đạo Phật ở một vùng đất mới. Cuộc đời, sự nghiệp và đức hạnh của bà mãi mãi là tấm gương sáng để con cháu đời sau học tập, noi theo
Được xây dựng ở lưng chừng núi Am (Am Sơn), một ngọn núi hình chóp nón thuộc dãy Trà sơn, xung quanh là các ngọn rú Tròn, rú Voi, rú Tàng, rú Bạc, rú Nhắt…Chùa am (Diên Quang Tự) xã Đức Hoà quay mặt về hướng nam, lưng tựa vào vách núi. Hai bên có hai khe nước đổ vào Hồ Đông và Hồ Tây. Trước mặt là một thung lũng rộng xóm làng trù mật, con sông Ngàn Sâu hiền hoà, xa xa là dãy Trường Sơn hùng vĩ bốn mùa mây phủ. Trong khu vực chùa có nhiều cảnh trí thiên nhiên kỳ thú mà tạo hoá đã đặc biệt ưu đãi cho một công trình tôn giáo tín ngưỡng tôn nghiêm. Từ phía dưới đi lên chùa có rất nhiều viên đá lô nhô giống như một đám người đang quỳ lạy, gọi là “Bái Phật tăng”. Sau chùa nhều tảng đá dựng đứng gọi là “Đá thần công”, xung quanh chùa là rừng thông tĩnh mịch thâm nghiêm. Chùa Am có mặt bằng kiến trúc hình chữ công ( ), kiểu kiến trúc phổ biến của thời Lê, nội thất bố trí theo chiều dọc. Củng giống như các ngôi chùa khác, bàn thờ chính ở chùa Am phía trong cùng cao nhất là ba pho tượng Tam thế Phật, rồi đến các tượng Phật Di Đà tam Tôn, tượng Thích Ca sơ sinh và các tượng Nam Tào, Bắc Đẩu. Bên phải bàn thờ Phật xưa là tượng Bạch Ngọc Hoàng Hậu bằng đồng đặt trong khám gỗ sơn son thếp vàng (nay chỉ còn thờ di ảnh tượng của bà), bên trái thờ các vị Phật tăng. Phía trước chùa có năm ngôi tháp cổ là nơi đặt xá lỵ (tro hài cốt) của các bậc tu hành tại đây sau khi viên tịch.
Chùa Am là một trong những ngôi chùa cổ ít ỏi còn sót lại một cách tương đối nguyên vẹn ở Hà Tĩnh sau gần 600 năm tồn tại. Là nơi mà bà Hoàng Hậu Bạch Ngọc ngày đêm tu hành, sáng tối niệm Phật cầu mong làm điều thiện cho đời. Công đức ấy, tấm lòng ấy thật trong sáng cao đẹp biết bao. Chùa còn là nơi sinh hoạt văn hoá, nơi thực hiện các nghi thức tín ngưỡng tôn giáo, rủ bỏ những dục vọng tầm thường hướng tới thiện căn.
Nằm trong hệ thống đền, chùa gắn liền với quá trình hình thành các cộng đồng dân cư trong quá trình khẩn hoang của bà Hoàng Hậu Bạch Ngọc ở vùng Đức Thọ hiện nay còn có rất nhiều di tích lịch sử văn hoá khác như nhà thờ Trần Văn Bút, Trần Văn Bích, chùa Vền (Vạn Phúc Tự), đền Trần Duy… nhưng đẹp và nổi bật hơn cả là đền Liên Minh (xã Liên Minh).
Đền Liên Minh (còn gọi là đền Thánh Mẫu) nằm bên tả ngạn dòng sông La, giữa một vùng dân cư đông đúc trù phú, xa xa là dãy núi Thiên Nhẫn nơi có thành Lục Niên của Lê Lợi trong công cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh.
Ngôi đền hiện nay khá lớn, các kết cáu kiến trúc chính vẫn gần như nguyên vẹn như: Cột nanh, hồ bán nguyệt, tắc môn, nhà ngũ lâu cùng với ba toà thượng, trung và hạ điên. Truyền thuyết kể lại rằng sau khi Hoàng Hậu Bạch Ngọc mất (ngày 22/6 niên hiệu Hồng Đức), thể theo nguyện vọng của bà vua Lê Thánh Tông đã cho người đưa thi hài của bà về an táng tại quê hương (làng Tri Bản, huyện Hương Khê). Trên đường về chẳng may thuyền bị gió bão đánh đắm và nước lũ cuốn trôi. Thi thể của bà dạt vào làng Yên Thái xã Liên Minh. Được tin ấy nhà vua ra lệnh cho quân sỹ và nhân dân địa phương an táng và lập đền thờ bà tại vùng đất đó. Giao cho hai thôn Yên Mỹ, Yên Phú của làng Yên Thái trông coi và khói hương thờ phụng.
Đền Liên Minh được tạo tác chạm trổ khá đẹp, các hoạ tiết hoa văn hầu như có mặt khắp các kết cấu kiến trúc của ngôi đền từ ngoài vào trong. Nhưng giá trị nhất là nơi đây còn lưu giữ được một chiếc kiệu cổ (kiệu bát cống) sơn son thếp vàng, là một trong những long kiệu cổ đẹp nhất Hà Tĩnh hiện còn lưu giữ được. Các điểm đầu và cuối của đòn kiệu được chạm trổ hình đầu rồng vươn ra phía trước cực kỳ tinh xảo. Thân đòn tạo biểu tượng của hình rồng cách điệu. Các chi tiết khác trên thân kiệu đều được chạm trổ các hoạ tiết hoa văn theo các đề tài như: Tứ quý, hổ phù và các hoa lá dây leo cách điệu rất đẹp. Ngoài ra đền còn lưu giữ được 7 bản sắc phong từ thời Tây Sơn (Cảnh Thịnh) đến thời Nguyễn.
ở vùng thượng Đức Thọ còn có một ngôi đền khác đẹp nổi tiếng đó là Đền Cả Du Đồng (thường gọi là đền Hàng Tổng) thôn Vĩnh Khánh, xã Đức Đồng.
Đền thờ Bùi thúc Ngật, người có công lao khai phá, chiêu dân lập ấp lập nên xóm làng của cả tổng Du Đồng, mở mang nông tang (nghề nông nghiệp và trồng dâu nuôi tằm), mở trường dạy học đầu tiên ở vùng đất này. Bùi Thúc Ngật sinh vào giữa thế kỷ XV, sau khi đậu Hương cống ông được vua Lê giao chức Chánh đội trưởng, phó Thiên hộ quan kiêm Tổng giáo quan khai phá vùng thượng Đức Thọ tổng Du Đồng. Ông đã đem hết trí tuệ và sức lực cùng nhân dân biến những vùng đất chiêm trũng thành ruộng vườn phì nhiêu, tiêu diệt thú dữ, nuôi tằm dệt vải. Nhờ đó mà nghề nông phát triển, tổng Du Đồng trở thành một nơi có xóm làng trù mật, dân cư đông đúc. Ông còn mở trường dạy học cho nhân dân trong vùng. Sau khi ông mất để tỏ lòng thương tiếc ông nhân dân trong tổng đã chọn một mãnh đất đẹp ở thôn Vĩnh Thành xây dựng ngôi đền quanh năm hương khói thờ phụng.
Đền có mặt bằng hình chữ tam ( ), gồm: Thượng, trung và hạ điện. Trước cổng đền là hai cây thông cổ thụ và rất nhiều ao hồ tạo nên thế cận thuỷ. Phía sau là cây bàng lớn toả bóng che rợp cả một vùng trời, con sông nhỏ Hắc Giang lượn vòng uốn khúc như ôm lấy thôn Vĩnh Khánh rồi đổ ra sông Ngàn Sâu. Tam quan đền Du Đồng được làm bằng gỗ lim, gỗ mít, một gian hai vì kèo, mái lợp ngói mũi hài, bờ nóc đắp lưỡng long chầu nguyệt. Toàn bộ các đường xà, kẻ khâu đấm, rường và cửa võng đều được chạm trổ với kỷ thuật chạm lộng rất tỉ mỷ và tinh xảo với các đề tài dân gian gần gũi với đời sống sinh hoạt như tứ quý, cá vượt vũ môn, rùa đội cuốn thư, tre, trúc…Phía trên cửa võng là bức đại tự “Thần vi, Đức kỳ, thỉnh hỷ hộ”. Dù đứng ở góc độ nào thì những mảng chạm khác ở đây đều toát lên những nét đẹp sắc sảo, uyển chuyển. Đây không chỉ là một công trình kiến trúc mà còn là một tác phẩm điêu khắc nghệ thuật nổi tiếng tại Hà Tĩnh, từ ngày xưa nhân dân trong vùng đã có câu ca:
“Gác chuông Kẻ Thượng
Hương án Xa Lang
Tam quan Tự Đồng (Du Đồng)”
Nhà trung và thượng điện đều được làm bằng gỗ, trên các đường kẻ và khấu đầu đều chạm trổ các hoạ tiết hoa văn trang trí như chim phượng, hoa lá cách điệu, nhưng không tạp trung và rực rở như ở cổng tam quan mà có tính chất điểm xuyết. Mặc dù vậy các đường nét chạm trổ ở đây vẫn sắc sảo, uyển chuyển, mềm mại. Đặc biệt hệ thống kết cấu con dư ở nhà thượng điện là nét độc đáo không nơi nào có.
Đền cả Du Đồng là một công trình có sự thống nhất và hoàn thiện về địa lý, bố cục, kết cấu và kỷ thuật, mỹ thuật trong xây dựng. Những mảng chạm khắc của ngôi đền là không những chỉ mang giá trị lịch sử mà còn mang giá trị kiến trúc nghệ thuật vô giá mà các thế hệ cha ông ta đã sáng tạo ra trong lịch sử còn để lại.
Thấp thoáng dưới tán những cây bạch đàn trên một mảnh đất cao ráo bằng phẳng giữa cánh đồng khối 14 thị trấn Đức Thọ là đền Hồ Nam. Đền được xây dựng vào khoảng giữa thế kỷ XVI (đời vua Lê Anh Tông, thời Lê Trung Hưng). Ban đầu ngôi đền có ba toà thượng, trung và hạ điện được chạm trổ khá sắc sảo tinh vi, nay chỉ còn lại hai toà thượng, hạ điện và một am thờ Dược Sư bên cạnh. Là một di tích lịch sử văn hoá cổ, ra đời cách đây hàng trăm năm ở một vùng đất giàu truyền thống yêu nước và khoa bảng. Đền Hồ Nam ban đầu thờ các vị Thần có nguồn gốc là nhiên Thần, thiên Thần theo tín ngưỡng “Vạn vật hữu linh” của người Việt cổ (Cao Các Mạc Sơn là Thần núi, Hổ Nha Lẫm là Thần hổ còn Ngọc Nữ Song Đồng Phương Dung là thiên Thần). Nhưng cùng với sự hình thành và phát triển sầm uất của cộng đồng dân cư, sự hiển đạt và đóng góp của các vị tiên công, tiên hiền theo con đường khoa bảng, xuất thân từ cửa Khổng sân Trình, mà dần dần việc thờ cúng được chuyển sang các vị Thần có nguồn gốc từ nhân Thần đã có nhiều công lao cống hiến cho quê hương đất nước, đó là: Tiến sỹ, Tả thị lang bộ Hộ, Đông các hiệu thư Phấn nghĩa hầu Trần Dực, Thượng thư Hành khiển Bùi Sằn và Nguyễn Thế Lộc.
Trần DựcT, một con người thông minh tiết nghĩa, có xuất thân nghèo khó nhưng giàu nghị lực phấn đấu vươn lên. Sau khi hiển đạt đã không quên nguồn gốc của mình bằng việc xây lại cây cầu khi ông ngồi học khi xưa để nhắc nhở không chỉ đối với con cháu mà còn mãi đối với các thế hệ mai sau. Sự hi sinh của ông thể hiện một tấm lòng trung quân ái quốc, góp phần vào việc ổn định tình hình chính trị trong nước lúc bấy giờ. Theo gia phả dòng họ: “Trần Dực khi còn nhỏ, nhà nghèo phải đi chăn trâu, ông cho trâu ăn cỏ bên cầu rồi vào mượn sách ở trường học gần đó mang ra cầu ngồi, vừa chăn trâu vừa đọc sách. Sau hai năm liên tục học theo cách ấy mà ai củng phải thừa nhận là ông học giỏi, đi thi đỗ Hương Cống. Lúc ra thành Thăng Long thi Hội vì không có tiền ăn, ông phải dấu tên họ làm người đầy tớ gánh thuê, giặt quần áo, thổi cơm nước cho một ông Cống lạ mặt giàu có. Đến trường thi ông còn phải sắp xếp mọi thứ đưa ông Cống nọ vào tận chỗ ngồi, mọi việc xong xuôi ông mới lo đến phần việc của mình. Vất vả không nói hết nhưng rồi mọi việc củng đâu vào đấy cả. Thi xong yết bảng truyền loa ông đỗ đầu kỳ thi Hội. Người thuê ông làm đầy tớ vẫn không biết. Khi ông tìm đến gặp mặt, người ấy giật mình kinh ngạc, lạy tạ không ngớt. Khi ra làm quan ông cho tu sửa cái cầu mà ông thường xuyên ngồi học ngày trước. Từ đó dân làng gọi tên cầu ấy là cầu Thị Lang. Ông dựng bia bên cầu ghi lại sự việc, cầu đến nay vẫn còn”.
Thượng thư Hành khiển Bùi Sằn là người đã có công rất lớn trong việc giáo dục đào tạo các nho sỹ. Các tư liệu và thư tịch cổ nói về ông (và có thể có các trước tác của ông) hiện không còn nữa, nhưng chắc rằng ông phải là một nhà nho uyên thâm về học vấn, giàu nhân tâm nên mới thu phục được đông đảo học trò trong đó không ít người là con nhà thân vương quyền quý. Trong giai đoạn lịch sử đầy rối ren nửa đầu thế kỷ XVI (cuối thời Hậu Lê, đời các vua Lê Túc Tông – 1504, Lê Uy Mục 1505 – 1509, Lê Tương Dực 1510 – 1516 và Lê Chiêu Tông, Lê Cung Hoàng 1516 – 1527), ông đã chọn cho mình thái độ ứng xử trước thời cuộc là lánh mình ẩn dật (xu hướng “xử”). Tuy nhiên khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, ông đã phất cao ngọn cờ nghĩa đứng lên chống lại họ Mạc theo tư tưởng chính thống của nho gia “Trung quân ái quốc”. Tiếc rằng việc lớn chưa kịp khởi sự thì ông mắc bệnh rồi mất. Vì vậy trong bài thơ của mình Hoàng giáp Bùi Dương Lịch đã lấy làm tiếc cho một con người “Sinh bất phùng thời” nếu không dễ có “…đại văn hào”. Bài thơ như sau:
“Bùi công Hành khiển quan triều trước
Trường học ngày xưa dựng trước bàu
Hương sách cỏ hoa xuân phảng phất
Dòng nho giếng suối nước trong veo
Sinh thời thịnh trị sinh là đáng
Thọ có tài danh thọ mới lâu
Mai Thuỷ trong ngần, Hồng Lĩnh biếc
Gặp thời dễ có đại văn hào”
Còn Nguyễn Thế Lộc, xuất thân trong một dòng tộc nối đời làm tướng ở làng Thượng Xá, huyện Nghi Lộc, xứ/trấn Nghệ An. Một “Vọng tộc” lớn phát về nghiệp võ mà những người khai sáng nên thanh thế dòng họ này bắt đầu từ Nguyễn Hội cùng hai người con là Nguyễn Biên và Nguyễn Xí. Cả ba người đều là những vị khai quốc công thần thời Hậu Lê (1428 – 1527). Trong đó Nguyễn Xí là một trong những anh hùng xuất sắc nhất của Lê Lợi trong cuộc kháng chiến giành độc lập chống quân xâm lược nhà Minh. Là công thần của bốn đời vua đầu nhà Hậu Lê: Thái Tổ (1418 – 1433), Thái Tông (1433 – 1442), Nhân Tông (1442 – 1459) và Thánh Tông (1459 – 1497). Xuất thân trong một dòng họ như vậy, rất có thể Nguyễn Thế Lộc là người có công rất lớn trong việc khẩn hoang lập ấp, lập nên làng Phúc Thái hoặc trong công cuộc chiến tranh chống lại họ Mạc nên được người dân thờ tự ở đền.
Ba con người, ba cuộc đời và sự nghiệp sống gần như trong cùng một giai đoạn đầy biến động của lịch sử dân tộc đều có những đóng góp xứng đáng của mình cho quê hương đất nước. Quả cảm công đức ấy các ông được các vua triều Nguyễn (đối với Trần Dực) và nhân dân các làng Yên Trung, Thái Yên, Phúc Thái tôn làm thần và thờ làm Thành Hoàng của làng (người bảo trợ cho dân chúng), bốn mùa hương khói thờ phụng.
Nằm về phía Tây của đền Hồ Nam, thuộc địa phận thôn Yên Hội xã Tùng ảnh (bóng tùng bên bờ Tam Soa – sông La) là nhà thờ Bùi Dương Lịch. Ông sinh năm 1757, tự là Tồn Thành, hiệu là Thạch Phả và Tồn Trai. Xuất thân trong một gia đình nho học nổi tiếng. Năm 17 tuổi ông đậu Hương cống. Đến năm 1787 ông đỗ Hội nguyên rồi thi đình đỗ Đình nguyên nhị giáp Tiến sỹ (Hoàng giáp). Sau khi Tây Sơn lên ngôi, biết ông là người có tài vua Quang Trung đã mời ông vào làm việc ở Sùng chính viện dưới quyền của La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp. Sau khi vua Quang Trung mất (1792) Sùng chính viện ngừng hoạt động ông về quê mở trường dạy học. Khi Gia Long lên ngôi (1802), ông lại bị triệu ra làm Đốc học Nghệ An, đến 1808 thì ông cáo quan về dạy học và viết sách rồi mất vào năm Mậu tý (1828) tại quê nhà.
Xuất thân trong gia đình nhà nho, lại chịu ơn sâu nặng của triều đình nhà Lê nhưng Bùi Dương Lịch lại sống trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động giữa cuộc tranh giành quyền lực của hai thế lực Lê – Trịnh, cuộc khởi nghĩa của phong trào Tây Sơn, quân Thanh xâm lược nước ta, rồi nhà Nguyễn lên ngôi. Nên ông luôn ở trong tâm trạng “Ưu thời mẫn thế’, không hứng thú gì với việc làm quan mà dành tất cả tâm huyết, sức lực cho việc trước tác, làm thơ và dạy học. Chính ở đây ông đã gặt hái được nhiều thành tựu rất đáng khâm phục. Rất nhiều học trò của ông đã đỗ đạt rất cao trong các kỳ thi tiến sỹ trong đó có cả con trai, con rể của ông. Về trước tác ông đã để lại cho đời sau nhiều tác phẩm có giá trị như “Bùi gia huấn bài”, gồm 2000 câu chữ Hán, “ốc lậu thoại thi văn” gồm 500 bài thơ vịnh cảnh sông núi, nhân vật lịch sử, “Lê quý dật sử” cuốn biên niên chép các sự kiện lịch sử từ cuối thời Lê đến thời Tây Sơn (1758 – 1793), “Yên Hội thôn chí” là cuốn lịch sử địa lý quê hương ông. Đặc biệt là tác phẩm “Nghệ An ký” viết đầu thế kỷ XIX thời Gia Long, khắc in thời Tự Đức, gồm hai phần “địa chí” và “nhân vật chí” ở trấn Nghệ An xưa. Đây là tác phẩm hết sức có giá trị và đáng tin cậy, được các học giả nghiên cứu từ trước đến nay đánh giá rất cao.
Nhà thờ Bùi Dương Lịch được xây dựng năm 1808, có hai toà: thượng điện và bái đường bình dị như nhiều nhà thờ danh nhân khác, dòng họ khác nhưng đây lại là quà tặng của những người học trò củ ghi nhớ ơn sâu nặng của ông. Đây là một nghĩa cử hết sức cao đẹp, đáng trân trọng của học trò và là bằng chứng của tinh thần “Tôn sư trọng đạo” của người dân xứ Nghệ. Nơi đây còn có một hiện vật rất có ý nghĩa, đó là tấm bia và bài văn bia bằng đá được làm từ năm 1866 (Sau 38 năm kể từ khi ông qua đời). Tấm bia do người con rể là Nguỵ Thiện Phủ Thượng thư hộ Bộ chế tác, con trai là Bùi Thúc Kiên tiếp nối hoàn thành. Văn bia do Án sát tỉnh Hưng Yên Nguyễn Văn Siêu soạn. Bài văn gồm 500 chữ, là bản nhận xét cô đọng toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp của Hoàng giáp Bùi Dương Lịch.
Cùng nằm ở địa phận xã Tùng ảnh có nhà thờ và mộ Chấp lệnh công Lê Bôi. Ông là vị khai quốc công thần, vị quan Đại thần thời Hậu Lê, thuỷ tổ dòng họ Lê ở xã Tùng ảnh. Lê Bôi sinh năm 1380 tại xã Tình Di, huyện Đỗ Gia (nay là xã Sơn Diệm, huyện Hương Sơn tỉnh Hà Tĩnh), trong một gia đình khoa bảng và khá giả. Là người thông minh có sức khoẻ, khi quân Minh xâm lược nước ta ông đã xếp bút nghiên theo việc binh đao. Ông chiêu mộ binh sỹ, tích luỹ lương thảo, luyện tập binh pháp chờ thời cơ đánh giặc. Khi Lê Lợi giương cao ngọn cờ nghĩa kêu gọi hào kiệt bốn phương ông đã tìm đến và được Lê Lợi phong làm tướng chỉ huy đội quân 500 nghĩa sỹ tại quê nhà. Trận đánh đầu tiên góp phần thay đổi cục diện thế trận ông tham gia là trận Khả Lưu – Bồ ải (giáp ranh giữa huyện Thanh Chương và huyện Đỗ Gia). Sau đó ông cùng nghĩa quân Lam Sơn tham gia giải phóng vùng Tân Bình – Thuận Hoá, rồi vây đánh thành Nghệ An. Đánh thành Khâu Ôn (Lạng Sơn). Năm 1427, khi Trấn thủ Quảng Tây đem 5 vạn quân và 5000 con ngựa sang cứu viện đến cửa ải Pha Luỹ (Mục Nam Quan) ông cùng tướng Lê Lựu đánh cho tan tác, chém hơn 3000 quân giặc, bắt hơn 500 chiến mã. Năm 1428, khi giang sơn thu về một mối Lê Lợi xưng Vương, ban thưởng cho những người có công lao, tất cả có 93 người. Trong đó Lê Bôi đứng hàng thứ 3 trong 14 Liệt hầu và hàng thứ 26 trong các Á hầu, được phong ấp và hưởng lộc ở Tùng ảnh, vì thế ông trở thành thuỷ tổ của dòng họ Lê xã Tùng ảnh ngày nay. Ông mất năm 1458, mộ táng tại xứ Ma Cô (thôn Châu Tượng, Tùng ảnh) cho đến tận ngày nay. Con cháu ông về sau nhiều người đỗ đạt và có nhiều đóng góp cho quê hương đất nước.
Nhà thờ và mộ Lê Bôi được xây dựng khá khang trang, là nơi tưởng niệm và tri ân vị khai quốc công thần triều Lê, là điểm văn hoá du lịch tâm linh hấp dẫn đối với đông đảo khách tham quan.
Nằm cạnh con đường nối liền giữa quốc lộ 8A củ cắt ngang cánh đồng thôn Đông Thái ra tận đê La Giang là nhà thờ Phan Đình Phùng thuộc thôn Đông Thái xã Tùng ảnh. Đây là nơi thờ tự và tưởng niệm Đình nguyên tiến sỹ Phan Đình Phùng. Một nhà khoa bảng xứ Nghệ yêu nước nồng nàn và là vị anh hùng dân tộc, Sơn trung tể tướng trong phong trào Cần vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX (1885 – 1895).
Cụ Phan Đình Phùng hiệu là Châu Phong, sinh năm Đinh mùi (1847), mất năm ất mùi (1895), xuất thân trong một gia đình có truyền thống khoa bảng. Thân sinh là cụ Phó bảng Phan Đình Tuyển và thân mẫu là bà Phan Thị Long ở làng Đông Thái, xã Việt Yên Hạ, tổng Việt Yên, huyện La Sơn nay là xã Tùng ảnh, huyện Đức Thọ. Năm 1876 ông đỗ Cử nhân trường Nghệ An, đến năm 1887 ông đỗ Đình nguyên Tiến sỹ (đỗ đầu). Được bổ ra làm quan ở huyện Yên Khánh tỉnh Ninh Bình, nổi tiếng là người cương trực ngay thẳng. Sau đó ông được triệu về kinh giữ chức Ngự sử (can gián vua) ở Viện đô sát. Năm 1883 vì chống lại việc phế truất vua Dục Đức của quan Đại chính phụ thần Tôn Thất Thuyết (lúc này là Thượng thư bộ Binh, người đứng đầu phái chủ chiến ở triều đình), ông bị cách chức đuổi về quê hương. Tháng 7/1885, sau khi binh biến ở kinh thành Huế thất bại, Tôn Thất Thuyết đã đưa vua Hàm Nghi và lực lượng chủ chiến ra sơn phòng Quảng Trị phát hịch Cần vương lần thứ nhất và lần thứ hai (9/1885) tại sơn phòng Phú Gia, Hương Khê, Hà Tĩnh. Lúc này cụ Phan Đình Phùng sau khi bị cách chức đuổi về quê hương đã tích cực chiêu mộ nghĩa sỹ, tập hợp lục lượng, tích luỹ lương thảo chuẩn bị chống Pháp. Được tin ấy ông liền dẫn một số sỹ phu La Sơn đến bái mệnh vua và ông được phong làm Tán lý quân vụ Đại thần Thống lĩnh các đạo quân Cần vương chống Pháp. Cuộc khởi nghĩa do ông lãnh đạo đã kéo dài 10 năm (1885 – 1895), trên một địa bàn rộng khắp bốn tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình đã làm cho thực dân Pháp thất điên bát đảo. Đại bản doanh hoạt động chủ yếu tại căn cứ Vũ Quang – Hương Khê, giáp giới với các huyện Hương Sơn, Đức Thọ. Nhân dân khắp nơi kéo về gia nhập nghĩa quân trong đó có nhiều tướng lĩnh có tài như Cao Thắng, Lê Văn Trạc, Nguyễn Mục…Nghĩa quân đã tự tạo được súng trường kiểu 1784 của Pháp, trang bị được hơn 500 khẩu súng với đạn dược đầy đủ. Con số nghĩa quân có lúc lên đến 1000 người chia làm 15 quân thứ. Nghĩa quân chủ yếu dựa vào thế núi rừng hiểm yếu để phòng thủ và chống giặc càn quét và đã đánh thắng nhiều trận lớn ở Phủ Quỳ, Cầu Giát (10/1890), gây cho quân địch nhiều tổn thất. Đầu năm 1893, thực dân Pháp điên cuồng càn quét vào căn cứ địa của nghĩa quân. Trước tình hình đó Phan Đình Phùng quyết định mở một cuộc tấn công quy mô lớn và tỉnh lỵ Nghệ An nhưng không thành, phó tướng của ông là Cao Thắng đã hy sinh. Sau đó quân Pháp liên tục càn quét tấn công vào những khu vực đồn trại của nghĩa quân ở vùng Đại Hàm, Ngàn Cơ, núi Mò Ho. Trong điều kiện bị bao vây cô lập, lương thực, thuốc men, vũ khí đạn dược thiếu thốn lực lượng nghĩa quân ngày càng bị hao hụt. Nhưng trong giai đoạn này có một trận đánh nổi tiếng nhất là trận đánh trên sông Ngàn Trươi, khi quân giặc kéo vào căn cứ địa trên lưu vực sông Ngàn Trươi cụ đã bí mật cho người ngăn nước phía thượng nguồn rồi vót nhiều cọc gỗ thả nổi lên đấy đồng thời cho quân mật phục hai bên bờ sông. Quân Pháp kéo đến, thấy lòng sông cạn, nước chảy chậm liền kéo quân sang. Khi quân địch đã lọt vào trận địa mai phục, sau tiếng pháo hiệu nghĩa quân hai bên xông ra tiêu diệt. Trận đánh này nghĩa quân đã tiêu diệt được hơn 100 tên địch và ba viên chỉ huy, thu được nhiều vũ khí đạn dược. Sau trận ấy thực dân Pháp cay cú chúng tập trung lực lượng với hơn 3000 tên điên cuồng tấn công vào căn cứ Vũ Quang. Trong một trận càn Phan Đình Phùng đã bị thương rồi hy sinh vào ngày 28/12/1895, thọ 49 tuổi. Thi hài của ông được chôn dưới chân núi Quạt. Sau khi dập tắt được cuộc khởi nghĩa, nhằm làm nhụt chí chống Pháp của nhân dân ta, Nguyễn Thân đã cho người đào hài cốt của cụ lên đốt thành tro, nhồi vào thuốc súng bắn xuống dòng sông La. Thương tiếc vị anh hùng dân tộc, nhân dân ta đã xây dựng một ngôi mộ tưởng niệm cụ trên đồi Nê Sơn, thường xuyên hương khói thờ phụng.
Nhà thờ Phan Đình Phùng đã qua nhiều lần trùng tu tôn tạo, lần gần đây nhất là năm 2008 trên một khuôn viên rộng, gồm có: Thượng điện, hạ điện và hai nhà tả vu và hữu vu. Đôi cột nanh phía trước ghi đôi câu đối là sự đánh giá ghi nhận của hậu thế đối với những công lao cống hiến to lớn của cụ đối với quê hương đất nước
Phiên âm: “Đại đức an dân thiên cổ thịnh
Công cao hộ quốc vạn niên trường”
Nghĩa là: Đức lớn an dân ngàn năm thịnh
Công cao giúp nước mãi mãi bền
Phần mộ của cụ hiện nay nắm ở gần đỉnh đồi Nê Sơn là nơi cao ráo thoáng đãng nhất thể hiện sự uy nghi và cung kính của hậu thế đối với bậc tiền nhân. Mộ được ghép bằng đá thanh màu xanh, đỉnh mộ được tạo hình chóp nón trên có gắn hình bông sen. Đặc biệt là tấm bia bằng đá được khắc hai mặt bằng chữ quốc ngữ do ông Trần Huy Liệu, Viện trưởng viện sử học biên soạn bằng chữ quốc ngữ. Nội dung tóm lược cuộc đời và sự nghiệp, tinh thần vì nước quên thân vì dân phục vụ, đức hy sinh cao cả của cụ, ca ngợi cuộc khởi nghĩa do cụ lãnh đạo và tinh thần yêu nước của nhân dân bốn tỉnh Thanh – Nghệ – Hà - Quảng.
Cùng nằm trên địa phận xã Tùng ảnh còn có một di tích lịch sử văn hoá quan trọng và rất có ý nghĩa to lớ, đó là khu di tích lưu niệm đồng chí Trần Phú. Đây là điểm du lịch văn hoá tâm linh hàng năm thu hút đông đảo khách tham quan ở trong và ngoài nước, là sợi chỉ đỏ, nơi gặp gỡ của những con tim hướng về nguồn cội, về Đảng và truyền thống đấu tranh cách mạng của nhân dân ta.
Trong dòng chảy lịch sử Việt Nam những thập niên đầu của thế kỷ XX, đã xuất hiện một tên tuổi lớn, một trí tuệ lớn và một nhân cách lớn. Đó là đồng chí Trần Phú, người soạn thảo Luận cương chính trị – Tổng bí thư đầu tiên của Đảng. Đồng chí Trần Phú sinh ngày 1/5/1904 tại thôn An Thổ, xã An Dân, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Nguyên quán tại đây, xã tùng ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Thân sinh là cụ Trần Văn Phổ, sinh năm ất sửu (1865), mất năm Kỷ dậu (1909). Năm 1897, sau khi đỗ giải nguyên (đỗ đầu) trường Nghệ An, cụ được bổ về làm Giáo thụ huyện Đức Thọ (người trông coi công việc giáo dục của một huyện, tương đương với chức danh trưởng phòng giáo dục hiện nay). Năm 1901, triều đình Huế điều chuyển cụ vào dạy học ở huyện Tuy An tỉnh Phú Yên. Đến năm 1907, triều đình Huế lại điều chuyển cụ ra làm tri huyện huyện Đức Phổ tỉnh Quảng Ngãi. Mặc dù làm quan nhưng cụ rất thanh liêm, khi phong trào chống sưu thuế ở Trung kỳ nổi lên vì chống lại lệnh của thực dân Pháp đàn áp cuộc khởi nghĩa cụ đã tuẫn tiết tại huyện đường Đức Phổ vào đêm 19/4/1909. Thân mẫu là bà Hoàng Thị Cát, một người phụ nữ nông dân cần cù chất phác quê ở xã Châu Dương huyện Nghi Lộc tỉnh Nghệ An. Sau khi cụ Phổ mất gia đình đồng chí Trần Phú lâm vào cảnh khốn cùng, thực dân Pháp đã đuổi cả gia đình ra khỏi huyện đường. Bà Cát không thể mang theo sáu người con trở về Hà Tĩnh, đành lếch thếc dắt díu nhau đi về phía Tây thành Quảng Ngãi mở một ngôi hàng nước kiếm sống qua ngày. Hơn một năm sau vì cuộc sống quá vất vả và quá buồn phiền, bà đã qua đời vào một ngày cuối thu năm 1910. Sau khi bà Cát mất, mấy anh chị em bơ vơ lưu lạc một người một phương. Đồng chí Trần Phú và đồng chí Trần Ngọc Danh hai người con bé nhất được người dì đưa về Quảng Trị cho ăn học và học hết bậc tiểu học ở đấy. Mùa thu năm 1918, đồng chí Trần Phú vào học trường Quốc học Huế. Sống nơi kinh thành hoa lệ với nhiều cảnh đời ngang trái đồng chí ngày càng thấy rõ ràng hơn nổi nhục của người dân mất nước. Tại đây đồng chí được cụ Võ Liêm Sơn khơi dậy tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc. Lúc này các phong trào yêu nước của các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh đã ảnh hưởng rộng khắp cả nước. Mặc dù rất khâm phục và yêu mến các cụ nhưng đồng chí và các bạn đã sớm nhận thấy các phong trào này có phần không đúng đắn với xu hướng cách mạng lúc bấy giờ. Tháng 10/1922, sau khi đỗ đầu kỳ thi Thành chung ở Huế đồng chí được bổ về làm giáo học dạy ở trường tiể học Cao Xuân Dục thành Vinh. Thành Vinh lúc này là lò lửa cách mạng, nơi có phong trào đấu tranh của công nhân và nhân dân khá sớm. Tại đây có dịp gần gũi với nhân dân lao động, lại được đọc báo ‘người cùng khổ” (Leparia) của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc đồng chí đã thấy đó chính là nguồn ánh sáng mới. Phong trào ngày càng lên cao đã dẫn đến một sự kiện chính trị quan trọng. Mùa hè 1925, tại núi Con Mèo – Bến Thuỷ đồng chí Trần Phú và một số nhà cách mạng ở Trung kỳ đã họp và thành lập hội Phục Việt (là một tổ chức giao thời của một số người thuộc hai nhóm cựu chính trị phạm củ và các giáo viên, sinh viên tiến bộ). Lão chí sỹ Lê Văn Huân một cựu chính trị phạm ở Côn Đảo mới về củng tham gia vào tổ chức này. Sau cuộc họp đó Hội thành lập một chi nhánh ở Vinh. Hoạt động của Hội Phục Việt là dạy chữ quốc ngữ cho công nhân và nhân dân lao động ở Vinh, Hội còn dấy lên tinh thần yêu nước cho nhân dân địa phương. Vào khoảng tháng 4/1924, đồng chí nhận nhiệm vụ sang Lào vận động cách mạng tới Pạc Hin Bun. Tại đây đồng chí đã có dịp đi sâu tìm hiểu cuộc đời cơ cực của những người công nhân mỏ. Chuyến đi này đã giúp đồng chí có những hiểu biết về tình hình thực tế ở Lào để sau này giúp Đảng đề ra những đường lối thích hợp cho cách mạng toàn Đông Dương. Tháng 6/1924, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từ Pháp sang Liên Xô dự Hội nghị quốc tế cộng sản lần thứ V, sau đó người giữ trọng trách phụ trách Uỷ viên Đông Phương bộ, phụ trách Cục Phương Nam của Quốc tế cộng sản (quốc tế III), rồi về hoạt động ở Trung Quốc. Trong thời gian ở Trung Quốc, Người thành lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Châu và đến tháng 6/1925 xây dựng tổ chức Tâm tâm xã thành Đảng Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội ở Quảng Châu. Được tin ấy Ban lãnh đạo Hội Phục Việt sau khi đổi tên thành Hội Hưng Nam, Việt Nam Cách Mạng Đảng liền cử một đoàn đại biểu do đồng chí Trần Phú phụ trách sang Quảng Châu tìm gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc để đề nghị hợp nhất các tổ chức cách mạng Đảng ở trong và ngoài nước. Đến Quảng Châu vào vào đầu tháng 8/1926, đoàn được đưa về trụ sở của Đảng Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng. Đồng chí Trần Phú và các bạn của anh được tham dự lớp Huấn luyện chính trị do Đảng này tổ chức. Đồng chí lấy bí danh là Lý Quý, toàn lớp có khoảng 20 học viên. Lớp học bế mạc vào cuối tháng 10/1926 và đồng chí Trần Phú được kết nạp vào Việt Nam Thanh Niên Cộng Sản Đoàn. Từ đây đồng chí đã được giác ngộ theo chủ nghĩa Cộng Sản để sau này trở thành người học trò xuất sắc, người trợ thủ đắc lực của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Trở về nước đồng chí được phân công về hoạt động ở Nghệ An và Trung Kỳ. Tháng 12/1926, đồng chí Trần Phú về đến Vinh, thực dân Pháp biết đồng chí đã về nước nên lùng bắt ráo riết. Mùa xuân năm 1927, đoàn thể lại cử đồng chí sang Quảng Châu tìm gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Tới Quảng Châu đồng chí được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cử sang học tại trường Đại học Phương Đông ở Mat – xcơ - va (Liên Xô). Trong thời gian này đồng chí lấy tên là Likivây.
Đầu năm 1930, sau khi tốt nghiệp đồng chí Trần Phú từ Liên Xô qua Đức, Bỉ, Pháp và Hà Lan bí mật về tới Sài Gòn vào ngày 8/2/1930 mang theo kiến thức của một nhà lý luận có tài. ở Sài Gòn ít ngày đồng chí sang Hồng Kông và tháng 4 rời Hồng Kông về Hải Phòng rồi đáp xe lửa lên Hà Nội. Tới Hà Nội, đồng chí đề nghị với Đảng cho đi khảo sát tình hình thực tế ở một số địa phương. Đồng chí xuống Nam Định, sau đó sang Thái Bình và khu mỏ Hòn Gai. Đầu tháng 7/1930, đồng chí từ Hòn Gai về đến Hà Nội và được bầu vào Ban Chấp hành Trung Ương lâm thời, đồng thời được phân công dự thảo “Luận cương chính trị của Đảng”. Đồng chí đã bí mật trú ngụ tại số nhà 90 hàng Bông Nhuộm. Tại đây đồng chí đã khởi thảo bản Luận cương chính trị nổi tiếng của Đảng. Bản Luận cương được thông qua tại Hội nghị Trung Ương lần thứ nhất họp ở Hương Cảng – Trung Quốc tháng 10/1930. luận cương là sự bổ sung, phát triển và hoàn chỉnh “Chính cương và sách lược Vắn tắt” của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi thảo tháng 2/1930. Hội nghị đã nhất trí đổi tên Đảng thành Đảng Cộng Sản Đông Dương và đồng chí Trần Phú được chính thức bầu làm Tổng bí thư đầu tiên của Đảng. Sau Hội nghị đồng chí rời Hương Cảng về Sài Gòn vào cuối tháng 11/1930. Lúc này Sài Gòn đang bị địch khủng bố trắng, nhiều cơ sở của ta bị lộ, nhiều chiến sỹ cộng sản bị địch bắt và hy sinh. Vào sáng ngày 18/4/1931 đồng chí đã bị địch bắt tại số nhà 66 đường Săm Pa Nhơ. Thực dân pháp đã giam giữ đồng chí ở bót Pôlô rồi bót Catina. Sau những lần hỏi cung không mang lại kết quả, chúng đã đưa đồng chí về Khám Lớn để chờ xét xử. Sống nơi tù ngục đoạ đày, sức khoẻ đồng chí ngày càng sa sút, bệnh tràng nhạc tái phát và bệnh viêm phổi ngày thêm trầm trọng. Tới tháng 8/1931 thì sức khoẻ đồng chí bị quỵ hẳn. Bọn cai ngục đành phải đưa đồng chí vào nhà thương Chợ Quán để điều trị và tới sáng ngày 6/9/1931 đồng chí đã vĩnh biệt đồng bào, đồng chí thân yêu trên tay những người đồng đội. Để lại cho toàn Đảng, toàn dân một tấm gương ngời sáng với lời trăn trối cuối cùng “Hãy giữ vững chí khí chiến đấu”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá: “Đồng chí Trần Phú là một người con ưu tú của Đảng và nhân dân đã oanh liệt hy sinh cho cách mạng”.
Gần 70 năm xa cách, thể theo nguyện vọng của nhân dân, sau khi tìm được hài cốt đồng chí Trần Phú. Tại dinh Thống Nhất Đảng và nhà nước ta đã tổ chức trọng thể lễ truy điệu và di dời hài cốt đồng chí về an táng tại quê hương ngày 12/1/1999.
Khu di tích lưu niệm đồng chí Trần Phú toạ lạc trên một khuôn viên rộng bên cạnh bờ đê la Giang, dưới bóng mát của những cây nhãn, cây xà cừ quanh năm xanh tốt. Khu lưu niệm gồm có nhà thờ tiểu chi họ Trần và nhà Trưng bày lưu niệm đồng chí Trần Phú. Nhà thờ tiêu chi họ Trần nguyên là nhà dân dụng được cụ Trần Viết Tân (cố nội của đồng chí Trần Phú) xây dựng vào năm 1862, sau đó được thân sinh đồng chí là cụ Trần văn phổ kế tự. Khi cụ Phổ vào Nam làm quan mang theo cả gia đình thì ngôi nhà được giao cho ông Đồ Cầu (chú ruột đồng chí Trần Phú) thừa hưởng. Vào khoảng những năm 1930, khi ông Đồ Cầu làm được căn nhà 3 gian kế bên thì ông hiến tặng ngôi nhà cho dòng họ và từ đấy tới nay ngôi nhà trở thành nhà thờ tiểu chi họ Trần. Ngôi nhà này, trong thời gian đồng chí học tập tại Huế và trong thời gian dạy học ở trường Cao Xuân Dục thành Vinh đồng chí thường về thăm nhà vào mỗi dịp hè . Vì vậy ngôi nhà trở thành di tích gốc nơi thờ tự vong linh tiên tổ họ Trần và nơi tưởng niệm, thờ tự vong linh đồng chí Trần Phú. Bên cạnh là Nhà trưng bày lưu niệm đồng chí có diện tích 360 m2, trưng bày rất nhiều tài liệu hiện vật về cuộc đời và sự nghiệp đồng chí Tổng bí thư Trần Phú.
Toạ lạc trên một khuôn viên rộng gần 7ha ở khu vực đồi Quần Hội thôn Châu Linh xã Tùng ảnh là khu lăng mộ đồng chí Trần Phú. Là một nơi có địa thế đẹp, sông núi hữu tình. Bên núi Tùng Lĩnh, trước bến Tam Soa (ba giải lụa), nơi hội tụ của hai con sông Ngàn Sâu và Ngàn Phố, bắt nguồn từ các huyện Hương Sơn, Hương Khê và Vũ Quang tạo nên dòng sông La thơ mộng, một trong những con sông lớn trong vùng nổi tiếng cả một châu, đã đi vào thơ ca từ ngàn đời nay và trở thành một phần tâm hồn, máu thịt, tình cảm của người dân nơi đây. Dòng sông La uốn mình qua chín xã của huyện Đức Thọ hợp lưu với dòng sông Cả (Nghệ An) ở ghềnh Yên Cự tạo thành dòng sông Lam. Sông La cùng với núi Hồng đã trở thành biểu tượng, thành tâm thế của người Hà Tĩnh. Phía bên kia bờ sông Ngàn Phố là quê hương của Nguyễn Tuấn Thiện vị danh tướng trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh của khởi nghĩa Lam Sơn, của danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hưu Trác với tác phẩm “Y tông tâm lĩnh” nổi tiếng, là quê hương của vị tướng trẻ tài ba Cao Thắng trong phong trào Cần Vương chống Pháp của Phan Đình Phùng và còn nhiều, rất nhiều các danh nhân khác mà tên tuổi và cuộc đời của họ đã làm rạng danh mảnh đất Hồng Lam. Xa xa thấp thoáng dưới bóng mây che phủ sớm chiều là dãy núi Thên Nhẫn nơi có thành Lục Niên (1418 – 1424) của nghĩa quân Lam Sơn, nơi La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp sống ẩn dật. Cảnh sắc ấy, con người ấy đã được bài “Văn thúc ước” khắc hoạ:
“Trước Tùng Lĩnh nhơn nhơn dăng cánh phượng
Bút văn phong non tháp đôi tầng
Sau La Giang cuồn cuộn uốn lưng rồng
Gềnh ngân đới nước thu đôi ngã
Đất vẹn thu mọi vẽ thanh kỳ
Đời giọt thấy nhiều tài phụ tá”
Khu mộ Tổng bí thư Trần Phú được xây dựng vào tháng 2/2000, hoàn thành vào cuối tháng 4/2004 trong lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh đồng chí (1/5/1904 – 1/5/2004). Nằm ở lưng chừng đồi Quần Hội, mặt hướng về bến Tam Soa, hai bên là xóm làng đông vui trù mật. Đường lên mộ được ốp bằng đá chẻ Thanh Hoá. Phía trước là bức phù điêu bằng đá khắc hoạ những hình ảnh đấu tranh của nhân dân ta từ khi Đảng ra đời như phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930 – 1931), cách mạng tháng 8/1945, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược và hình ảnh quê hương đất nước trên con đường đổi mới. Phần mộ đồng chí ốp bằng đá Granit, phía sau là một bức tường gắn dòng chữ “Hãy giữ vững chí khí chiến đấu” bằng đồng trên nền đỏ. Trên phần mộ đồng chí Trần Phú là Phần mộ hai cụ thân sinh: Thân mẫu là bà Hoàng Thị Cát và thân phụ là ông Trần Văn Phổ. Phía bên phải là phần mộ đồng chí Trần Ngọc Danh (1908 – 1952), người con thứ 8 trong gia đình và là người em đồng chí Trần Phú. Ông Trần Ngọc Danh nguyên là Uỷ viên trung ương Đảng, đại biểu Quốc hội khoá I, là thành viên tham dự Hội nghị Phôngtennơblô năm1946 và là Trưởng phái đoàn đại diện của Chính phủ Việt Nam tại Pháp từ năm 1946 – 1954.
Hàng nămH, khu di tích lưu niệm đồng chí Trần Phú đã đón hàng vạn lượt khách tham quan trong nước và quốc tế về đây dâng hương tưởng niệm và tri ân vị anh hùng dân tộc, người chiến sỹ Cộng sản lỗi lạc, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Trong đó có nhiều đồng chí cán bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng và nhà nước.
Lê Doãn Thắng (Ban quản lý di tích Trần Phú)
VI. Hiện vật tại di tích:
Bảng thống kê hiện vật đền hồ nam
STT |
Tên gọi
|
Chất liệu |
Số lượng |
GHI CHÚ |
1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. 10. 11. 12. 13. 14. 15.
|
Bát hương Cờ phật Hạc Cọc nến Lọ hoa Sắc phong Hòm đựng sắc phong Mâm cổ bồng Kiệu bát cống Đèn thờ Hoá trầm Tượng phật Bàn thờ ảnh Bác Hồ Tế phả làng Phúc Thái |
Đồng§, sứ Vải Sứ Đồng Sứ, đất nung Giấy Gỗ Gỗ Gỗ Nhựa Đồng Sứ, xi măng Gỗ Giấy Giấy
Tổng cộng:
|
03 cái 02 lá 01 đôi 02 đôi 17 cái 06 sắc 03 cái 01 bộ 01 cái 03 cái 02 bộ 12 bức 04 cái 01 ảnh 01 cuốn
59 hiện vật |
1 đồng, 2 sứ
11 sứ, 6 đất nung
1 mâm 6 quả
9 sứ, 3 xi măng
|
VII. Giá trị lịch sử, văn hoá - nghệ thuật:
Di tích lịch sử văn hoá Đức Thọ – những nét khởi thảo
Đức Thọ là mảnh đất địa linh nhân kiệt, giàu truyền thống văn hoá và học hành khoa bảng là quê hương của biết bao học giả, bao bậc hiền tài có công với dân với nước. Nằm ở phía Bắc của tỉnh Hà Tĩnh, trong suốt trường kỳ của lịch sử, huyện Đức Thọ ngày nay đã nhiều lần thay đổi về tên gọi và địa danh. Từ thửa Hùng Vương dựng nước trải qua các thời Tần (246 – 207 TCN), Hán (206 TCN – 220 SCN), Ngô (thế kỷ III), Tấn (thế kỷ III – V), Đức Thọ là vùng đất thuộc huyện Cửu Đức. Thuộc các quận Cửu Châu, Hoan Châu, Nam Đức vào thời nhà Lương (thời Nam Bắc triều 420 – 589), nhà Tuỳ (581 – 619), nhà Đường (681 – 907). Bước sang thời kỳ tự chủ (thời Lý, Trần) Đức Thọ thuộc Phủ /Trấn Nghệ An. Theo cuốn “Nghệ An ký” và “Yên Hội thôn chí” của nhà thơ học giả Bùi Dương Lịch thì: “La Sơn thời Trần gọi là Chi La, thời Minh củng gọi như thế. Thời Lê Sơ đổi là La Giang, đến đời Trung Hưng để tránh tên huý chúa Trịnh Giang nên đổi tên thành La Sơn” .
Thời Nguyễn năm Minh Mệnh thứ 3 (1822), đổi phủ Đức Quang thành phủ Đức Thọ và địa danh Đức Thọ có từ đó đến nay.
Nằm ở trung tâm của xứ Nghệ, châu thổ của dòng sông Lam, sông La, được bao bọc bởi những dãy núi nổi tiếng như Hồng Lĩnh, Thiên Nhẫn và Trà Sơn đã tạo cho Đức Thọ nhiều danh thắng nên thơ hùng vỹ. Từ xưa Đức Thọ đã nổi tiếng là mảnh mầu mỡ, khí hậu ôn hoà, phong tục thuần hậu. Con người hiếu nghĩa tiết tháo, anh dũng kiên cường, giàu truyền thống yêu nước và học hành khoa bảng. Những yếu tố đó đã tạo nên một truyền thống văn hoá đặc sắc của vùng đất này.
Thiên nhiên và con người Đức Thọ, trong suốt quá trình phát triển của lịch sử đã tạo nên một vùng quê hội tụ nhiều di tích lịch sử văn hoá và danh lam thắng cảnh với đầy đủ các loại hình di tích.
Trên bước đường hành hương tìm về cội nguồn lịch sử quê hương, dân tộc. Bước chân qua cầu Đò Trai (nơi giáp ranh giữa thị xã Hồng Lĩnh và huyện Đức Thọ), soi mình bên dòng sông Bán Thuý (còn gọi là kênh nhà Lê), thấp thoáng dưới bóng tán lá những cây đa cổ thụ là đền làng Gia Thịnh xã Đức Thịnh. Đây là một di tích lịch sử văn hoá cổ được xây dựng vào thời Lê Trung Hưng (khoảng thế kỷ XVIII), đời vua Lê Hiển Tông (1740 – 1780). Ngôi đền có hai toà thượng và hạ điện, là nơi thờ tự Tam Lang Đại Vương. Người con trai thứ ba của vua Hùng được sai làm Thần ở sông Bạch Hạc. Theo tín ngưỡng thờ thuỷ thần (thờ rắn, rồng) một trong những tục thờ phổ biến ở nước ta. Trải qua các triều đại, với 9 bản sắc phong còn lưu giữ được thì đền Gia Thịnh trước đây đã từng là một ngôi đền lớn thờ Tam Lang Đại Vương. Một vị Thần mà đến đời Khải Định đã phong lên đến Thượng đẳng Thần (một vị Thần mới được phong lần đầu thì củng thường chỉ là Hạ đẳng Thần, Thượng đẳng Thần nếu là nhân thần thì củng phải là bậc đế vương như An Dương Vương, Triệu Quang Phục… hoặc là tướng lĩnh lừng danh như Uy Minh Vương Lý Nhật Quang – thờ ở đền Quả Sơn, Nghệ An). Được ban rất nhiều mỹ tự và hết lời ngợi ca: “Đức ngài là đấng minh triết dũng lược…anh hùng quả đoán…trên thông tỏ cơ trời mà dẹp được loạn, trừ được tai ương bảo vệ muôn dân …khai dẫn cho đời, phò trợ nước nhà được thái bình…” (sắc Cảnh Hưng), hoặc: “Đức ngài từ xưa tới nay có công hộ quốc bảo dân nổi tiếng linh thiêng cầu ứng…” (sắc Đồng Khánh) .
Trên địa bàn xã Đức Thịnh còn một ngôi đền nổi tiếng khác là đền thờ Ngô Thị Ngọc Dao (còn gọi là đền Đồng Cần). Bà là Quang Phục Hoàng Thái Hậu, người làng Đông Bảng, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hoá. Thửa nhỏ nổi tiếng là người con gái xinh đẹp, nết na hiền thục được đưa vào làm cung phi đời vua Lê Thái Tôn. Sinh ra hoàng tử Lê Tư Thành sau lên ngôi vua lấy hiệu là Quang Thuận rồi Hồng Đức, là một vị vua xuất chúng trong lịch sử thời kỳ quân chủ ở nước ta. Năm 1471, giặc Chiêm xâm lấn bờ cõi Đại Việt. Nhà vua đã tự mình ngự giá thân chinh thống lĩnh ba quân đi đánh giặc có Thái Hậu đi cùng. Chỉ trong một thời gian ngắn quân giặc bị đánh tan. Trên đường trở về kinh thành Thăng Long, lúc đi ngang qua xã Quang Chiêm tổng Hoa Lâm (Đức Thịnh ngày nay) thì Thái Hậu mất. Thương tiếc bà, nhà vua đã sai người chôn cất tại Đồng Cần. Đồng thời để lại một số người thân thích và cấp 100 mẫu ruộng cho quan viên và dân làng Quang Chiêm để lo việc hương khói, thờ phụng hàng năm theo nghi thức quốc gia.
Toạ lạc giữa cánh đồngT, trong một khuôn viên rộng được bao bọc bởi nhiều cây cổ thụ quanh năm xanh tốt. Trong bảng lãng khói sương của những buổi trời chiều hai toà thượng và hạ điện của ngôi đền Đồng Cần uy nghiêm trầm mặc rêu phong cổ kính trông đẹp như một bức tranh thuỷ mặc.
Nằm về phía tây của xã Đức Thịnh là xã Thái Yên, một làng quê có nghề mộc nổi tiếng khắp cả nước còn có chùa Vĩnh Phúc và Đền Thánh Thợ. Chùa Vĩnh Phúc (Vĩnh Phúc thiền tự) Được xây dựng vào thời Hậu Lê (1428 – 1527), thế kỷ XV sau sự thiên di của mẹ con bà Hoàng hậu Bạch Ngọc cùng một số tôn thất nhà Trần đến ở vùng chân dãy núi Cốc và dãy núi Trà Sơn (vùng thượng của huyện Đức Thọ) khai hoang lập ấp với một lòng mộ phật đã góp phần thúc đẩy sự ra đời của rất nhiều ngôi chùa ở trong vùng trong giai đoạn này như: Chùa Am (Diên Quang tự), chùa Tiên Lữ, chùa Ân Quang, chùa Cổ Lộng, chùa Vền (Vạn Phúc tự), chùa Phượng Tường… Nằm ở trung tâm phật giáo phía Nam Đại Việt, chùa Vĩnh Phúc cùng với hệ thống tượng thờ và các giá trị tinh thần lớn lao chứa đựng trong đó như một minh chứng cho tư tưởng từ bi, hỉ xả, bác ái, cứu khổ, cứu nạn của đạo Phật thông qua Tứ diệu đế (khổ đế, nhân đế, diệt đế và đạo đế). Sức lan toả, sự dung hoà giữa đạo và đời đến đây được tiếp tục phát triển ở 1 vùng đất mới như một sự hoằng dương của Phật pháp.
Xét một cách bao quát, Vĩnh Phúc không phải là một ngôi chùa lớn bề thế gắn liền với danh lam thắng cảnh ở một vùng non nước hữu tình. Trong mặt bằng kiến trúc tổng thể, chùa còn thiếu vắng một số đơn nguyên kiến trúc như cổng tam quan, nhà bia, cột kinh, tháp, nhà tăng.v.v Nhưng điểm nổi bật ở chùa Vĩnh Phúc chính là hệ thống tượng và tranh phật được thờ tự ở trong chùa. Lớp tượng Thường Trụ Tam Thế Diệu Pháp Thân (thường gọi là tượng Tam Thế Phật) và lớp tượng Di Đà Tam Tôn cùng một số tượng ở hai bàn thờ hai bên, ở nhà bái đường củng như các bức tranh Phật được thờ ở trong chùa. Các đức Phật này đều có tóc kết xoắn ốc, tay kết tam muội, ngồi kiết già lộ hai bàn chân. Nếu kẻ một đường tròn theo hình của Đức Phật rồi kẻ một đường trung tâm trên đỉnh xuống chúng ta dễ dàng nhận thấy trong trong từng nữa này thì phần lớn nhất là lòng đùi. Nhưng nổi lên giữa lòng đùi trái là lòng bàn chân phải và ngược lại. Trong cách thức này hình khái quát tượng Đức phật đồng nhất với vòng tròn thái cực. Có nghĩa là vòng tròn chia đôi theo một đường hình chữ S cân đối để tạo thành lưỡng nghi tức âm – dương, thì ở phần lớn nhất ở dương – tức thái dương đã xuất hiện yếu tố âm và ngược lại. Đây chính là một bức hình đồ biểu hiện về nguyên lý thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái…khởi đầu của muôn loài. Vì vậy người ta còn gọi tượng ngồi kiết già toàn phần là kiểu ngồi âm – dương. Kiểu ngồi này có khả năng tập trung được tư tưởng vào những yếu nghĩa sâu xa của đạo lý. Đồng nhất với ý nghĩa của hoa sen để nói về âm – dương, lý – trí, phàm – thánh cùng một bản thể, một cội nguồn. Đây là cách ngồi viên mãn vượt qua mọi trở ngại thường tình của cỏi tục. Cách ngồi này còn gắn với việc khai mở các trung tâm lực chính trên cơ thể con người bằng hình tượng bông cúc nở mãn khai nơi trái tim. Tới đây luân xa A na ha ta được khai mở, tu sỹ đạt được phép Tha tâm thông, không cần hành động mà vẫn hiểu được tư tưởng của chúng sinh. Luân xa này khai mở khiến kẻ hành giả phát triển trí tuệ đến mức độ cao và đạt được thánh quả: Tứ đại vô lượng tâm (đại từ, đại bi, đại hỉ, đại xả).
Tóc phật xoắn ốc bao kín nhục kháo và cả đầu là biểu tượng nguồn phát sáng của phật pháp. Từng lọn tóc xoắn là biểu tượng của chử Thánh, như: Đức tự (tượng trưng cho đạo đức cao hơn hết), cát tường tự (tốt lành, minh bạch, rõ ràng hơn hết) và vạn tự (ngọn lửa tam muội làm tịnh tiến thiện căn, diệt trừ dục vọng). Tất cả những vẻ đẹp thiêng liêng của các cụm tóc xoắn hội tụ lại nhằm tạo cho bộ não minh mẫn đạt được khả năng về trí tuệ cao viễn, tiến tới sự giác ngộ.
Các Đức phật ở đây có tai lớn, đỉnh tai cao trên lông mày biểu hiện về quyền uy oai lực của nhà phật, dái tai dài nói lên sự phúc hậu, đại từ, đại bi. Lông mày cong gọi là nguyệt mi tạo nên một vẽ đẹp thánh thiện, hội tụ các dòng hạnh phúc. Đầu lông mày chảy xuống sống mũi, đuôi lông mày che hết mắt biểu hiện về sự trọn vẹn không vướng mắc cuộc đời. Mắt Đức phật khép hờ nhìn xuống hội vào đỉnh mũi như để tập trung tư tưởng trí lực nhằm soi rọi nội quan, tất cả để diệt trừ ma tâm chống sự tà loạn. Mũi Đức phật đầy đặn cân phân ấm áp, sống mũi cao, lỗ mũi tròn, đỉnh mũi không hếch, không khoằm biểu hiện tư thế của người chính nhân quân tử với súc mạnh và trí tuệ từ bi cao hơn hết. Các yếu tố về tóc, tai, mắt mũi đều hướng tới một mục đích là cứu vớt chúng sinh đau khổ khỏi mọi kiếp trầm luân và được hội tụ vào miệng pho tượng. Tượng phật ở đây miệng tương đối nhỏ, phảng phất một nụ cười nhẹ (nụ cười hàm tiếu), thể hiện sự đồng cảm giữa Đức phật và chúng sinh.
Áo cà sa của tượng phật (còn gọi là tăng già lê, phúc điền y, giải thoát phục…) có màu vàng là màu đã giải thoát xa lìa cõi tục ở cuộc đời (còn các tượng có màu vàng ở mặt và chân tay biểu hiện vị phật đó đã ở cõi niết bàn ít gắn với trần gian). Áo cà sa màu nâu giúp cho kẻ hành giả chống được sự kiêu căng ngã mạn để lấy nhẫn làm đầu. áo cà sa chính là thanh y (tâm trong sáng), tỉnh y (tâm yên tỉnh), và nhẫn nhục y (chống lại mọi dục vọng của tham, sân, si, ái, ố, hỉ, nộ), nhờ đó mà mọi sự đều trong sáng tốt lành để bước vào kiếp tu, hướng tới thiện căn và tịnh tiến trong dòng chảy của đạo pháp.
Hội tụ tất cả những yếu nghĩa về đầu, mặt và trang phục như trên thì có thể nói rằng kiếp tu này đã đạt được quả niết bàn nên được ngồi trên toà sen.
Các pho tượng trong hậu cung và nhà bái đường chùa Vĩnh Phúc cùng rất nhiều tranh phật được tạo tácC, thể hiện với một trình độ nghệ thuật thẩm mỹ cao. Bên cạnh những đặc trưng của một pho tượng phật, các pho tượng này dưới đôi tay tài hoa của các nghệ nhân xưa đều toát lên cái phong thái, cốt cách thuần Việt, vừa uy nghi linh thiêng vừa gần gũi. Với màu sắc chủ đạo bằng các chất liệu dân gian truyền thống như: Màu vàng, màu xanh da trời và màu nâu đỏ. Hình ảnh các Đức phật ngồi trên toà sen (ngoại trừ một bức của Đường Tam Tạng) chùa Vĩnh Phúc được các hoạ sỹ thể hiện theo một lối vẽ phóng khoáng (lối vẽ phóng bút). ống tay áo rộng, bờ vai xuôi, tà áo dài lượn theo hình sóng, cánh hoa sen mềm mại cùng những đám tinh vân cách điệu bao quanh Đức phật là những nét đặc tả với nét vẽ mềm mại, uyển chuyển tinh tế, giàu tính nghệ thuật và xúc cảm thẩm mỹ cao.
Phần lớn các tượng phật chùa Vĩnh Phúc đều được tạc bằng gỗ mít (theo quan niệm nhà phật, mít là cây gỗ thiêng nơi hội tụ của phật, pháp và tăng). Ngoài những tư tưởng triết lý, nhân sinh quan thấm đẫm tư tưởng phật giáo thì mỗi một pho tượng, bức tranh ở đây còn là một công trình điêu khắc, mỹ thuật hoàn hảo mà các nghệ nhân nhân xưa đã gửi gắm bằng tất cả tâm hồn tình cảm và ước nguyện của mình. Trải qua bao sự biến thiên thăng trầm của lịch sử, dưới lớp bụi thời gian những tư tưởng cao cả của đạo phật vẫn sáng lấp lánh hướng tâm hồn, tình cảm con người tới những giá trị Chân – Thiện – Mỹ.
Đền Thánh thợ Thái Yên thờ tiên sư Lỗ Ban (ông tổ nghề mộc), đền nằm trên một mãnh đất cao ráo bằng phẳng ở đầu làng. Là một công trình kiến trúc nghệ thuật đẹp và khá đồ sộ, gồm có ba toà: Hạ, trung và thượng điện. Ngôi đền như một bảo tàng nghệ thuật điêu khắc gỗ, là dấu ấn bàn tay lao động của các nghệ nhân qua nhiều thế hệ của một làng mộc cổ truyền nổi tiếng.
Đặc trưng của nghệ thuật kiến trúc đền Thái Yên là kiến trúc đình, đền truyền thống từ bố cục không gian đến bài trí nội thất. Độc đáo và giá trị nhất là nghệ thuật điêu khắc chạm trổ bằng kỷ thuật chạm lộng và chạm bẹt. Từ kết cấu kiến trúc đến các hoạ tiết hoa văn như phù điêu, long kiệu, hương án, lư hương, bài vị, long ngai, tượng ông phỗng cùng các đồ tế khí như long đao, chân đèn, kiếm, đại đao… đến các mảng chạm trổ trên xà cổn, đầu kẻ, hòn kê, ván thưng …với các đề tài tứ linh (long, ly, quy, phương), mây, lữa, hoa, lá … đều được chạm kín nhưng nhìn không rối mắt. Nét chạm chắc khoẻ mà không thô, phong khoáng bay bướm mà không cẩu thả. Trong tổng thể kiến trúc thỉnh thoảng chúng ta bắt gặp những khoảng trống đó là những chổ “nghỉ mắt”, là khoảng trống “hữu thức”. Điều đó càng cho thấy tư duy thẩm mỹ cao của các nghệ nhân làng mộc cổ truyền danh tiếng.
Ngoài kỷ thuật bào ghép, tạo dáng chắc khoẻ của phong cách nghề mộc Thái Yên, các chi tiết chạm trổ trong ngôi dền đều lấy chủ đề từ các điển tích xưa với phong cách dân gian rõ nét. Hổ giắt răng, rồng đau mắt, tích ông Biểu Thức, tích Thuấn canh lịch sơn, Hứa Do tẩy nhi, nhị thập tứ hiếu, chàng trai đi tìm măng trái mùa ngồi bên bụi tre khóc để măng mọc lên hái về dâng cha mẹ ăn … Ngoài ra còn rất nhiều đề tài hoa lá như hoa cúc, hoa mua, hoa sen, hay tích tam điểm (ba loài cây: Đào, lê, lựu). Đề tài động vật ngoài tứ linh còn có long mã, cá chép, hươu nai, chim hạc … Đồ tế khí trong nhà thờ có nhiều loại hình với số lượng và giá trị lớn. Đó là hai quả chuông đúc nổi chữ Thái Yên, cho đến các bộ long đao, bát bảo, bửu tượng, quy hạc, các lư hương chạm bằng gỗ quý, các bộ long kiện, long ngai, bài vị, kiếm, mũ, hia của thần … tất cả đều thể hiện rỏ tài năng và tư duy thẩm mỹ của các nghệ nhân qua nhiều thế hệ làng mộc Thái Yên.
Ngoài nghệ thuật chạm trổ điêu khắc điêu luyện, đền Thái Yên còn là nơi bảo lưu nghệ thuật sơn then, mạ vàng các bức chạm và nghệ thuật vẽ sơn trên ván gỗ ở trần nhà, các bức bình phong và các tấm ván cửa. Đền Thái Yên xứng đáng là một bảo tàng điêu khắc chạm trổ cổ vật nổi tiếng đất Hồng Lam.
Nằm ở phía đông của huyện Đức Thọ, xã Yên Hồ thời Trần có tên là Bà Hồ, đời Lê gọi là Bình Hồ. Thời Tây Sơn vào khoảng những năm 1789 – 1790 để tránh tên huý của vua Quang Trung (Nguyễn Huệ tên thật là Nguyễn Văn Bình) nên đổi từ Bình Hồ thành Yên Hồ. Là kinh đô của nhà Hậu Trần (1407 – 1413), Yên Hồ còn là đất học hành khoa bảng vào loại sớm nhất ở Hà Tĩnh. Từ thế kỷ thứ XIII đã có Đào Tiêu đậu trạng nguyên năm ất hợi đời trần Thánh Tông, niên hiệu Bảo Phù thứ 3 (1275) và Đoàn Xuân Lôi đậu khôi nguyên năm Giáp tý đời Trần Phế Đế, niên hiệu Xương Phù thứ 8 (1383). Tiếp đó có Nguyễn Biểu đậu Thái học sinh vào cuối thế kỷ thứ XIV, làm quan đến Điện tiền Ngự sử thời Hậu Trần. Thời Lê – Nguyễn, Yên Hồ lại có nhiều người đậu đại khoa như Tiến sỹ Phạm Nại (1462 - ?) khoa Đinh mùi (1487), Tiến sỹ Nguyễn Phong (1559 - ?) khoa Quý mùi và Tiến sỹ Lê Đắc Toàn (1622 – 1675) khoa Nhâm thìn (1652).
Nằm khiêm nhường bên cạnh con đường liên thôn nối liền quốc lộ 8A và đê La Giang vắt ngang qua cánh đồng xã Yên Hồ là nhà thờ Lê Đắc Toàn. Nơi thờ tự vong linh tiên tổ dòng họ Lê Đắc và Tam giáp đồng Tiến sỹ xuất thân Lê Đắc Toàn. Ông tên thật là Lê Vĩnh Đích, sinh năm Nhâm Tuất, đời vua Lê Thần Tông (lần thứ nhất), niên hiệu Vĩnh Tộ năm thứ 4 (1622). Thân sinh là cụ Lê Vĩnh Mệnh, thân mẫu là bà Lương Thị Lữ xã Bình Hồ, huyện la Sơn. Nay là xã Yên Hồ, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
Vốn có tư chất thông minh lại giàu nghị lực, mặc dầu gia cảnh gặp nhiều khó khăn nhưng ông vẫn kiên trì học tập và đậu Sinh đồ tại kỳ thi hương năm Kỷ Sửu đời vua Lê Chân Tông (1634 – 1649), niên hiệu Phúc Thái lần thứ 16 (1649). Đến năm Canh Mão đời vua Lê Thần Tông (1649 – 1662), niên hiệu Khánh Đức năm thứ 3 (1651) đỗ đầu kỳ thi hương và đến năm Nhâm Thìn (1652), thì ông đậu Tam giáp đồng Tiến sỹ xuất thân. Khi đó ông tròn 31 tuổi.
Sinh ra và lớn lên trong thời tao loạn, bên cạnh ngôi vua (là bậc chí tôn theo quan điểm của nho gia), còn có phủ chúa cùng sự phân tranh về quyền lực và lãnh thổ giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài làm đảo điên mọi trật tự trong một xã hội được xây dựng trên nền tảng của Nho gia đã có hàng ngàn năm tồn tại và phát triển. Lê Đắc Toàn làm quan trải qua ba đời vua thời Hậu Lê là: Lê Thần Tông (1649 – 1662 lần thứ 2), Lê Huyền Tông (1663 – 1671) và Lê Gia Tông (1672 – 1675). Lần lượt giữ các chức: Cẩn sự lang giám sát ngự sử bậc dưới đạo Hải Dương. Chỉ một năm sau ông được phong tước Nam và thăng lên chức Thanh Hoá hiến sát sứ ti bậc dưới. Đến năm Cảnh Trị thứ 2 (1664), sau khi mãn tang mẹ Lê Đắc Toàn được thăng Đô cấp sự trung Binh khoa. Năm Cảnh Trị thứ 7 (1669) ông được bổ nhiệm làm Thừa chính sứ ti, Tham chính phúc khê nam, cấp bậc Lang trung Hộ khoa, đồng thời được phong lên tước tử. Đến năm Dương Đức thứ nhất, ông lại được phong chức Đô ngự sử đài kiêm Đô ngự sử chức. Như vậy, sau 21 năm làm quan dù ở cương vị nào dù là Giám sát ngự sử bậc dưới ở một đạo hay Đô cấp sự trung của một khoa và Thiêm đô ngự sử hoặc đi sứ sang Trung Quốc (thời Minh), ông luôn được nhà vua và triều thần trọng dụng, đánh giá cao về tài năng và đức độ là: “…người có tâm thuật, tài năng giúp việc”, “hoàn thành tốt nhiệm vụ…” nên sau khi ông mất triều đình thương xót truy tặng phong cho ông chức Tả thị lang Bộ công và được các vua đời nhà Nguyễn phong lên hàng Phúc thần (từ Hạ đẳng thần lên Trung đẳng thần), giao cho xã Yên Hồ bốn mùa thờ phụng theo nghi thức quốc gia.
Nhà thờ có mặt bằng kiến trúc hình chữ đinh ( ), gồm hai toà thượng và hạ điện. Nơi đây còn lưu giữ được 12 bản sắc phong cổ và một bài thơ bằng chữ hán khắc gỗ của Hoàng Giáp Hồ Ngọc Phong, nội dung như sau:
Phiên âm: “Tư lưỡng khôi nguyên hậu
Bình Hồ tứ khí chung
Đằng vân đăng giáp đệ
Cựu vũ điển cừ hung
Nam hưởng ôn nhân đạt
Bắc trì cống khoản thông
Đại danh thuỳ khẩn ngoại
Kình tiết trọng triều trung
Mông tặng song thân hiển
Lưu khanh hậu duệ hồng
Thiên thu hương hoả tự
Nghiễm nhược kiếm di dung
Ngọc Phong Hồ Hoàng Giáp phụng toản
Tự Đức Tân tỵ trùng thuyên”
(Dịch nghĩa: Thi hương và thi hội đều đỗ đầu
Bình Hồ là nơi hội tụ tốt lành
Văn: Đứng ở bậc thứ cao
Võ: Thao lược biết địch, biết ta
Việc trong nước (Nam) tinh thông
Đi sứ sang Bắc (nước Minh) giỏi giang
Tiếng tăm ra tận mãi ngoài
ở trong nước càng thêm trọng vọng
Trước là để biết ơn cha mẹ
Sau là lưu điều mừng lớn cho con cháu
Nghìn năm khói hương thờ phụng
Như thấy dung nhan nghiêm trang còn đó
Hoàng Giáp Hồ Ngọc Phong vâng soạn
Khắc lại năm Tân tỵ triều Tự Đức – 1881)
Toạ lạc trong trong vườn cây xanh tốt giữa trung tâm xã Yên Hồ là đền thờ Nghĩa vương Nguyễn Biểu, mà các sử sách xưa thường gọi là “miếu cổ Bình Hồ”. Về thân thế Nguyễn Biểu: Ông quê ở xã Bà Hồ, huyện Chi La, đỗ Thái học sinh đời Trần, đã từng theo giúp vua Trùng Quang nhà Hậu Trần từ những ngày đầu mới lên ngôi, tính tình thẳng thắn, dám nói sự thật nên được phong chức Điện tiền thị Ngự sử. Về cái chết của ông theo cuốn “Đại Việt sử ký toàn thư – quyển 4”, viết “Mùa hạ, tháng 4 năm Quý tỵ – 1413 bọn Trương Phụ nhà Minh đánh vào Nghệ An vua chạy vào Châu Hoá, sai đài quan là Nguyễn Biểu làm sứ cầu phong, mang sản vật địa phương đến Nghệ An. Trương Phụ giữ lại Biểu tức giận mắng rằng làm quân nhân nghĩa, đã hứa lập con cháu nhà Trần, lại đặt quận huyện, không chỉ cướp châu báu vàng bạc, lại còn giết hại dân sinh, thật là giặc tàn ngược, Phụ giận lắm đem giết”. Trong cuốn “Nghĩa sỹ truyện của Hoàng Trừng” chép việc này khá tỷ mỷ, trở thành một huyền thoại về tấm lòng trung quân ái quốc, bất khuất trước kẻ thù của ông “…khi Nguyễn Biểu lên đường vua Trùng Quang có bài thơ đưa tiễn, tỏ lòng tin cậy ở vị sứ giả của mình, và hy vọng “Việc nước một mai công ngõ vẹn, Gác lân muôn tiếng dõi lâu xa”. Nguyễn Biểu đã hoạ lại thơ vua khiêm tốn nói: “Hổ mình và thiếu tài chuyên đối”, nhưng củng tỏ bày lòng trung thành và quyết tâm “dịch lộ ba nghìn dặm ngại xa” . Tiện đường ông ghé về thăm nhà, bái yết tổ tiên, sắm sữa đồ lễ rồi mới sang Lam Thành. Đến dinh Trương Phụ bị hạch sách vặn hỏi, Nguyễn Biểu không đổi sắc mặt, đối đáp cứng cỏi, phụ tỏ ý nể, lưu lại đãi cơm. Khi nhìn thấy mâm cơm có chiếc đầu người luộc chín, biết Phụ định uy hiếp mình, ông thản nhiên nói: “A! người Nam lại được ăn đầu người Bắc”, rồi cầm đũa móc hai con mắt chấm tương ăn. Xong bữa tiệc kỳ quái này ông còn đọc bài thơ “Ăn cổ đầu người’. Trương Phụ hay tin cảm phục đối xử tử tế, rồi cho về. Nhân đó Phụ hỏi tên hàng thần Phan Liêu: “Nguyễn Biểu là người thế nào”. Liêu vốn là người có hiềm khích với ông, bèn nói: “Người ấy là hào kiệt ở An Nam, ngài muốn lấy nước Nam mà không có người này sao được”. Phụ sai người bắt ông lại nhằm mua chuộc, uy hiếp. Nhưng khi Nguyễn Biểu bị dẫn tới trước mặt Trương Phụ, hắn bắt ông lạy, ông vẫn đứng thẳng, không hề run sợ. Phụ mắng ông vô lễ, ông bèn vạch âm mưu và tội ác của giặc. Phụ tức giận sai quân đưa ông ra trói dưới chân cầu Yên Quốc (tức cầu Lam, một nhánh sông Lam chảy giữa hai làng Vệ Chánh và Quang Dụ xưa), cho nước lên dìm chết. Ông lấy móng tay vạch vào cột cầu tám chữ: “Thất nguyệt, sơ nhất nhật, Nguyễn Biểu tử” (ngày mồng một, tháng bảy, Nguyễn Biểu chết), tức ngày 28/7/1413. Nhưng ba ngày liền nước thuỷ triều không lên tới nơi, trong suốt ba ngày đó ông chửi giặc không ngớt. Phụ cho rằng ông được thần phù trợ, bèn sai bắt đưa về trước chùa Yên Quốc đánh chết. Mặc dù giết chết ông nhưng Trương Phụ vẫn khính phục nghĩa khí, bèn cho người đem thi hài ông về mai táng ở quê nhà. Trước đền thờ hiện nay còn có lăng mộ”.
Được tin Nguyễn Biểu mất vua Trùng Quang hết sức thương xót, sai làm văn dụ tế. Nhà sư chùa Yên Quốc củng bài văn làm lễ cầu siêu cho ông (hai bài này hiện nay vẫn còn, chép sau bài “nghĩa vương ký” lưu tại nhà thờ họ Nguyễn ở Yên Hồ). Đền hiện nay còn lưu hai tấm bia đá. Một tấm ghi thân thế sự nghiệp và bài minh ca tụng đề ngày mồng 2/5 năm Tự Đức thứ 28 (15/6/1875) do Cử nhân Hoàng Xuân Phong soạn văn bia. Tấm bia thứ hai do nhân dân hai thôn Nội Diên và Yên Phúc xã Yên Hồ dựng. Văn bia đề ngày 8/10 năm Tự Đức 30 (12/11/1877) do Cử nhân Lê Viết Huy nhuận sắc. Ngoài thân thế, sự nghiệp Nguyễn Biểu, nội dung tấm bia còn ghi rõ thời gian ông được phong tặng Thần vị và việc thờ tự qua các thời đại.
Thời Lê, đời vua Lê Thánh Tông, niên hiệu Hồng Đức, vua sai người lập miếu thờ Nghĩa sỹ ở Bình Hồ, ban ruộng tế và cho lấy dân trong sở tại một Lễ lang và hai Thừa tự, trông coi việc thờ cúng đồng thời giao cho Trấn quan mỗi năm một lần về tế lễ.
Về sau tuy không còn lệ “quốc tế”, nhưng hơn 300 năm qua nhân dân xã Yên Hồ vẫn luôn thờ phụng Nghĩa Vương như là một vị Thành Hoàng của làng. Ngôi đền được bảo vệ, trùng tu thường xuyên. Đến nay ngôi đền gồm ba toà nhà lợp ngói âm dương, lát gạch. Cổng vào đền là hai cột trụ biểu cao, phía trong có hai tấm bia đá. Trong ba toà đền, ngoài kiệu, hương án và nhiều đồ thờ tự khác còn rất nhiều biển gỗ khắc thơ “ngự chế” của Hoàng Trừng và nhiều đối liễn của nhân dân địa phương, quan viên và các nhà khoa bảng.
Ngôi đền đã trở thành một biểu tượng thiêng liêng của những người trung nghĩa “Văn phong năng khởi sỹ phu tâm” (nghe đến tiếng tăm của Ngài, lòng sỹ phu phải dấy động – Lê Lai Yến). Niềm tự hào qua nhiều thế hệ của người dân nơi đây.
Bên kia dòng sông Đò Hào thuộc xã Đức Vĩnh là đền thờ Chiêu Trưng, nơi thờ tự và tri ân Chiêu Trưng Đại Vương Lê Khôi, vị khai quốc công thần triều Lê. Ông là người cháu ruột của vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi), là một trong những vị danh tướng đầu tiên tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và đã lập được nhiều chiến công hiển hách. Sau khi khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi (1427), ông tiếp tục cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp trung hưng khôi phục đất nước, giữ yên bờ cõi, chăm lo đời sống của nhân dân.
Đền thờ chính và mộ phần của ông đặt tại núi Long Ngâm, dãy Nam Giới thuộc địa phận xã Thạch Bàn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1446, sau khi đi đánh Chiêm Thành thắng lợi trở về ông đã bị bệnh mất rồi được an táng tại đây. Triều đình và nhân dân thương tiếc xây dựng đền thờ, hàng năm đến ngày huý nhật của ông thì cử quan về tế lễ.
Năm Tân tỵ, niên hiệu Dương Hoà thứ 7 (16410, đời vua Lê Thần Tông, quan Hữu ty thấy đền nằm sát bờ biển, sóng to gió lớn bất thường có thể gây trở ngại cho việc tế lễ nên tâu xin nhà vua cho dời đến địa điểm mới ở địa phận thôn Nguyên Phúc xã Triều Khẩu (huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An), phía dưới Lam Thành để tiện cho việc tế lễ. Đền này về sau giao cho nhân dân ba thôn Phúc Xuyên, Quang Du và Hưng Phúc xã Triều Khẩu thờ phụng. Đến cuối thế kỷ thứ XIX, đất các làng Quang Dụ, Hưng Phúc bị xói lỡ xuống dòng sông Lam. Dân hai làng phải dời sang định cư ở bờ phía nam, lập làng và dựng lên một ngôi đền mới để thờ phụng. Đền Chiêu Trưng xã Đức Vĩnh hiện nay được lập nên từ đó.
Chiêu Trưng Đại Vương Lê KhôiC, sinh vào khoảng những năm cuối thế kỷ thứ XIV, tại làng Lam Sơn, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá. Ông là con của Lê Trừ (người anh trai thứ hai của Lê Lợi). Năm 1418, Lê Lợi tế cáo trời đất, phất cao ngọn cờ nghĩa chống quân xâm lược nhà Minh, “Lê Khôi là một trong những người đầu tiên đứng dưới ngọn cờ khởi nghĩa của Lê Lợi”, ông tham gia nhiều trận đánh lớn và lập được rất nhiều chiến công “mình đeo bên tả túi tên, bên hữu túi cung, theo vua hàng trận, công lao rực rỡ” (Lịch triều hiến chương loại chí – Phan Huy Chú). Đặc biệt trong hai trận quyết chiến chiến lược là trận Khả Lưu - Bồ ải và trận Xương Giang. Sách “Lịch triều hiến chương loại chí” chép: “…Bọn Lê Sát, Lê Lễ, Lê Vấn, Lê Nhân Chú, Lê Ngân…Lê Khôi tranh nhau lên phía trước phá quân giặc, chém đầu giặc không sao kể xiết. Thuyền giặc trôi ngổn ngang, xác chết đuối ngẹn tắc cả khúc sông, khí giới vất đầy cả rừng núi, bắt sống đô đốc Chu Kiệt, chém tướng tiên phong Hoàng Thành, bắt sống hàng ngàn tên giặc…”, với chiến thắng đó nghĩa quân đã tiêu diệt được một lực lượng lớn quân giặc, đẩy chúng vào thế bị động trên chiến trường. Trong trận đánh quân tiếp viện nhà Minh do An viễn hầu Liễu Thăng làm Tổng binh tại cánh đồng Xương Giang “Các tướng Lê Khôi, Nguyễn Xí, Phạm Vấn, trương Lôi được lệnh đem theo quân tinh nhuệ và voi chiến tiến lên Xương Giang” (Đại cương lịch sử Việt Nam) và “Ông (tức Lê Khôi) cùng Phạm Vấn đem vài nghìn binh giáp cùng Lê Sát đánh tan Thôi Tụ (là Hữu tướng Đô đốc), Hoàng Phúc (Thượng thư bộ Công) ở Xương Giang, bắt sống Tụ, Phúc và mấy vạn quân địch, khôi phục lại Đông Đô” (Lịch triều hiến chương loại chí).
Khởi nghĩa lam Sơn thắng lợi, Lê Lợi lên ngôi vua mở ra một triều đại mới, phát triển huy hoàng trong lịch sử dân tộc. Tháng 12/1428, triều đình định công ban thưởng cho các tướng lĩnh có công lao, Lê Khôi được ban Kỳ lân hộ vệ tướng quân, quyền Hành quân tổng quản, hàm Nhập nội thiếu uý, sau thăng đến Nhập nội tư mã rồi Đô đốc, được tham dự triều chính và ban cho tước Hầu. Đồng thời dựng bia khắc tên các vị khai quốc công thần trong đó có Lê Khôi.
Năm 1443, ông được cử vào trấn thủ Thuận Hoá là vùng đất phía nam Đại Việt, bằng tài năng và uy đức của mình ông đã góp phần giữ yên bờ cõi, ổn định tình hình, chăm lo đời sống của nhân dân. Củng trong năm này, ông đã cùng quân triều đình dẹp tan cuộc nổi loạn của Bế Khắc Thiện và Nông Đắc Thái được nhà vua tặng kim phù và áo bào. Năm 1443, đời vua Lê Nhân Tông ông được điều vào làm Đốc trấn Nghệ An. Ông đã cùng nhân dân khai hoang lập ấp, đắp đê dọc hai bờ sông Lam, sông La, miễn giảm sưu thuế, phát triển kinh tế. Năm 1446, ông cùng Đô đốc Lê Khả sau khi chinh phạt Chiêm Thành, trên đường chiến thắng trở về đã lâm trọng bệnh rồi mất.
Đền Chiêu Trưng hiện nay được xây dựng lại khá bề thế trên nền đất củ (ngoại trừ cổng tam quan), là điểm du lịch văn hoá tâm linh của đông đảo quần chúng nhân dân vùng hạ Đức Thọ và các xã phía nam của huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Dọc theo triền đê La Giang là một vùng đất nổi tiếng về học hành khoa bảng, đó là xã Trung Lễ. Theo truyền ngôn thì địa danh Trung Lễ được ghép từ hai chuẩn mực của nho gia đó là “trung” và “lễ”. Theo một số thư tịch cổ vùng đất này được khai phá từ thời Đinh “Duyên xưa đất lập từ thời Đinh” (Lê Trọng Đôn). Là mảnh đất đậm đặc các di tích lịch sử văn hoá - danh nhân và truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Tương truyền vào đời Trần đông đảo nhân dân Trung Lễ đã theo vua Trần Trùng Quang về tựu nghĩa dưới cờ Bình Định Vương ở núi Phù Lê. Nhưng nổi tiếng nhất là cuộc khởi nghĩa của nhân dân Trung Lễ trong phong trào Cần vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX.
Tháng 8/1885, nhân dân Trung Lễ phụng chiếu chỉ của vua Hàm Nghi đứng lên chống Pháp. Cậu ấm Ninh (tức Lê Ninh) được thân hào và dân chúng cử ra chỉ huy cuộc khởi nghĩa. Đại đồn Trung Lễ đóng tại xóm Đình và một phần xóm Ràn. Quân khởi nghĩa lúc đông nhất lên đến 1000 người “phu ở ngoài bất tính, chỉ tính được một nghìn” (vè ấm Ninh hạ thành Hà tĩnh), tổ chức thành cơ, vệ, chia làm 5 đạo: Tiền, hậu, tả, hữu và trung quân. Đại đồng đóng giữa, các xóm khác đều có đồn nhỏ bố trí theo phép ngũ liên, đồ pháp trận (theo binh pháp xưa). Quân phục có áo thâm, khăn ngại (xanh lục), vũ khí là giáo, gươm, côn, súng khai phục và súng cò máy đá. ở gần đại đồn có lò rèn khí giới, các nhà giàu trong làng trong xã xuất lúa nuôi quân, đóng tiền mua sắm quân trang, quân dụng. Nghĩa quân luyện tập ngày đêm ở đồng Dăm đầu làng, lập trường bắn súng.
Đầu tháng 11 năm 1885, nghĩa quân xuất phát từ đại đồn theo đường núi tiến quân vào hạ thành Hà Tĩnh với các cánh quân của các sỹ phu Nguyễn Thoại (Hương Khê), Nguyễn Chanh, Nguyễn Trạch (Can Lộc) … đã nhanh chóng hạ thành Hà Tĩnh thu toàn bộ khí giới, lương thực, voi ngựa. Bố chánh Lê Đại theo giặc bị nghĩa quân xử tử. Ngày 22/11/1885, nghĩa quân Trung Lễ tiếp viện cho nghĩa quân Phan Đình Phùng tấn công vào Định Trường (Đức Yên) đánh thị uy. Bọn phản động được quân Pháp từ Vinh kéo vào giúp sức, lực lượng địch đông nghĩa quân đành rút về đại đồn. Ngày 26/11/1885, giặc Pháp đánh vào Trung Lễ, nghĩa quân kháng cự quyết liệt, nhưng do súng đạn của nghĩa quân không sát thương được quân địch cách 200 m trở lên nên lính giặc đánh thốc vào đại đồn. Hàng ngũ nghĩa quân rối loạn, gần tối Lê Ninh tập hợp quân bản bộ rồi theo đường núi lên Bạch Sơn (gần Truông Mèn – Hương Sơn) xây dượng căn cứ mới. Hai năm sau Lê Ninh mất, Trần Cáp thay Lê Ninh chỉ huy nghĩa quân, liên lạc với nghĩa quân Nguyễn Chanh, Nguyễn Trạch lập căn cứ ở rú Xanh (Can Lộc) và liên lạc với nghĩa quân Cao Thắng ở Thượng Bồng Vũ quang. Từ năm 1890, phong trào Cần Vương ở Trung Lễ hoạt động công khai. Trần Cáp được phong làm Lãnh binh chỉ huy quân Lễ Thứ. Lực lượng đã có trên 150 tay súng thường xuyên chặn đánh những toán quân tuần tiểu lẻ tẻ của quân Pháp mà trận đánh nổi tiếng nhất là trận Đồng Đằng. Từ năm 1895, phong trào duy Tân ở Hà Tĩnh suy yếu dần. ở trung Lễ, hoạt động Cần Vương củng đi dần vào thoái trào và chấm dứt hoàn toàn vào năm 1897 khi các thủ lĩnh Cần Vương của làng là ông Trần Cát bị giặc Pháp bắt và bị xử tử, nhường bước cho những phong trào yêu nước, cách mạng tiếp theo như Duy Tân, Đông Du, Phục Việt, Hưng Nam và Tân Việt.
Nằm về phía Đông của xã Trung Lễ là xã Đức Thuỷ, nơi có di tích lịch sử văn hoá và kiến trúc nghệ thuật đền Voi Mẹp. Theo truyền thuyết dân gian, đầu thế kỷ XV, sau khi giặc Minh sang xâm lược nước ta hưởng ứng theo ngọn cờ nghĩa của vua Trần Trùng Quang nhân dân khắp vùng thừa tuyên nghệ An đã đứng lên chống giặc cứu nước trong đó có người nữ tướng mà tục truyền gọi là “nữ tướng Châu Chấu”. Sau khi bà mất, để tưởng nhớ công ơn của vị anh hùng dân tộc, nhân dân vùng kẻ Ngù (Đức Thuỷ) đã xây dựng đền thờ để ghi nhớ công đức.
Đền Voi Mẹp nằm trên một mãnh đất bằng phẳng, cao ráo bao quanh bởi nhiều cây cổ thụ xanh tốt, trước mặt là dòng sông Trúc, xưa có chợ Chùa sớm hôm thuyền bè xuôi ngược. Là một trong những thắng cảnh đẹp nổi tiếng trong vùng đã được nhà chí sỹ yêu nước Phan Văn Huân vịnh bài thơ:
“Trước mặt sông song muôn vẽ bày
Năm qua xuân kém đẹp xuân này
Ruộng cày, giếng nước lề xưa đó
Quán rượu phòng trà cảnh mới đây
Hói cũ thuyền xưa hàng bán chạy
Cây cao bóng mát khách ngồi đây
Người làng gặp gỡ xưa nay ít
Giấc mộng quê nhà chẳng chút khuây”
Đền có mặt bằng kiến trúc hình chữ tam ( ), phía trước đền là đôi cột nanh lớn đứng uy nghi sừng sửng. Ba toà thượng, trung và hạ điện bằng gỗ lim lợp ngói mũi hài được chạm trổ công phu rêu phong cổ kính. Nổi bật trong kiến trúc của ngôi đền là nghệ thuật chạm khắc gỗ với các đề tài dân gian truyền thống như: Rồng chầu, phượng ngậm cuốn thư, rùa ngậm đài sen, cúc leo, lá đề, hươu, nai…bố trí trên các đường xà, hạ, ván thưng, hòn kê…và các kết cấu kiến trúc khác từ cổng tam quan đến thượng điện. Được tạo tác, thể hiện một cách sống động và tinh tế, với đôi bàn tay khéo léo những người nghệ nhân xưa đã thổi hồn vào đây những tác phẩm điêu khắc đầy sức sống. Nếu quan sat kỹ, ta thấy ngay từ ngoài vào trên bộ vì gỗ nhà tam quan các hình rồng phượng được chạm khắc quyện chặt vào nhau chạy dài trên đôi quá giang, điểm vào đó là hình hoa lá. Các nét chạm vừa uyển chuyển, mềm mại, liên hoàn, nửa kín nửa hở như hai con rồng trên đường xà thượng điện, phần đầu được chạm nổi nhô lên trên nền đài sen và hoa cúc, còn phần thân và phần đuôi được hoà quyện trong tổng thể của kiến trúc với một bố cục không gian hợp lý. Các hoạ tiết thường được chạm sâu làm quyện chặt, liền mạch các đề tài trang trí, nếu quan sát phiến diện thì thật khó phân biệt từng đề tài riêng lẻ. Trong các mảng đề tài còn có những chi tiết phụ để tôn thêm vẻ trng nghiêm và sinh động nhưng không rối mắt như dây leo, dao mác… ở trung điện trên các đường xà đỡ mái, người thợ đã lợi dụng độ dài để tạo bốn đầu rồng đang vươn cao nhô lên, nhìn từ xa trông như những con rồng đang chầu vào nhau.
Bằng nghệ thật chạm khắc điêu luyện, bố cục điêu khắc được phân bố một cách cân đối hài hoà những người nghệ nhân xưa đã góp phần nâng nghệ thuật chạm khắc gỗ lên đến đỉnh cao, làm phong phú thêm kho tàng kiến trúc đình, đền, chùa Việt Nam những giá trị không nhỏ, là di sản văn hoá quý báu trong bản sắc văn hoá truyền thống dân tộc.
Toạ lạc trên một gò đất nhỏ, dưới bóng cây cổ thụ giữa cánh đồng xã Đức lâm là chùa Hoa Lâm. Theo truyền thuyết dân gian, vào năm Hồng Đức thứ 10 (1470), sau khi chiến thắng Chiêm Thành trên đường ca khúc khải hoàn trở về kinh thành Thăng Long đoàn quân do vua Lê Thánh Tông thân chinh dẫn đầu đã cho thuyền dừng lại bên bờ sông Bán Thuý lên đây vãn cảnh, thắp hương lễ Phật. Thấy quang cảnh vắng vẽ hoang tàn nhà vua đã xuống chiếu cho quan lại và nhân dân địa phương đóng góp tiền của trùng tu xây dựng lại ngôi chùa. Nhân sự kiện đó nhân dân mới đổi tên thành chùa “Hoa Lâm Ngự Tự”.
Là một ngôi chùa cổ xuất hiện vào loại sớm ở vùng Đức Thọ, ngôi chùa do công chúa Vương Mỹ Ngọc con gái vua Trần Trùng Quang xây dựng vào đầu thế kỷ XV (khoảng 1409 – 1413), trong lúc thăm thú dạo chơi vùng đất Chi La, khi đi qua đây thấy đất nơi đây có thế “rồng chầu hổ phục” bèn tâu xin vua cha cho xây dựng một ngôi chùa lấy tên là Hoa Lâm Tự. Ngược theo dòng chảy thời gian, vào năm 1406, quân minh xâm lược nước ta. Nhà Hồ sụp đổ, một số tôn thất củ của nhà Trần đã vào vùng đất Chi La kêu gọi nhân dân đứng lên khởi nghĩa, xây dựng căn cứ địa ở Bà Hồ (cách Đức Lâm khoảng 2km theo đường chim bay) với một tấm lòng mộ Phật. Trước đây ngôi chùa rất lớn bề thế với hai toà hậu cung và bái đường uy nghi được chạm trổ công phu nhiều hoạ tiết hoa văn có giá trị cùng với hơn 150 pho tượng Phật. Sau hơn 600 năm tồn tại, qua những thăng trầm biến đổi của lịch sử ngôi chùa cổ nay đã không còn. Ngôi chùa mới tuy không lớn nhưng vẫn thu hút đông đảo thiện nam tín nữ và nhân dân quanh vùng thương xuyên về đây thắp hương lễ Phật, cầu xin cuộc sống luôn an lạc cát tường.
Một trong những giòng họ nổi tiếng vùng Trường Lưu huyện Can lộc có nhà thờ ở xã Đức Dũng đó là nhà thờ Hàn lâm thị giảng nguyễn Huy Quýnh. Ông là tác giả của các tác phẩm nổi tiêng như: thác lời gái phường vải Tràng Lưu gửi trai phường nón Tiên Điền bằng văn nôm, Ninh công Tây Hồ mạn hứng thi tập, quảng Thuận đạo sử tập và hai bộ sách đã thất lạc là Dần phong văn sao (3 quyển) và Dần phong thi sao (theo Nguyễn thị gia tàng).
Sinh ra và lớn lên trong một vùng đất nổi tiếng học hành và khoa bảng đất Hồng Lam trong một gia đình trâm anh thế phiệt. Thân phụ là Anh liệt đại vương Tả thị lang Nguyễn Huy Tựu. Anh trai là Thượng thư bộ Công, học giả Nguyễn Huy Oánh. Nguyễn Huy Quýnh (1734 – 1785), tự Duy Nham, hiệu Dần Phong, thuỵ là Trung Ý, sinh ngày 19/2 năm Giáp dần, niên hiệu Long Đức thứ 3 (1734). Năm 23 tuổi ông đỗ đầu kỳ thi hương, Đến năm Nhâm thìn (1772) ông đậu Tam giáp đồng tiến sỹ xuất thân được bổ làm Cấp trung Hộ khoa, Giám sát ngự sử xứ Sơn Nam rồi Tham hiệp trong những lần được cử đi dẹp giặc. Với tấm lòng khoan dung, hết lòng vì nước vì dân. Thấu hiểu được nỗi cơ cực của người dân trong những lần đi đánh dẹp, ông đã nhiều lần dâng sớ lên triều đình vạch trần tệ nạn của bọn hào mục ở địa phương “Những hào mục lúc đang điêu tàn, ruộng bỏ hoang liền phá bỏ bờ làm của riêng. Bọn chúng còn ẩn lậu cả công điền công thổ, không nộp thuế” cho nên “Chỉ riêng những dân nghèo thấp kém là phải chịu thuế má, lao dịch ngày một nặng nề, kẻ nghèo thành cùng, kẻ cùng thành phiên lưu, vất vả gian nan càng ngày càng tệ”. Vì vậy ông đề nghị đối với bọn hào mục thì “Xin nhất loạt đuổi về”, đối với binh lính thì phải “khép vào kỷ luật nghiêm, nếu xét không thể dùng được thì cho về cày ruộng, không nên chú trọng vào só lượng mà thả nổi chúng làm hại dân”, “Phải trừ khử được tệ tham nhũng, bớt việc lao dịch, chú trọng đề cao đức tính giản dị (không được hoang phí), không được gây phiền nhiểu và đảm bảo sự ổn định cho nhân dân”. Là người cương trực khí khái, khi triều đình cầu lời nói thẳng ông đã dâng sớ tâu 7 việc cần làm cho dân cho nước, phải soi xét đến tận nơi ở ẩn và lắng nghe lời tâu bày của các sỹ phu… Mỗi lần ông luận giảng ở trường Quốc tử giám, các học trò đều khen ông là “Rương sách của Lai Thạch”
Nhà thờ Nguyễn Huy Quýnh là một di tích chứa đựng nhiều giá trị văn hoá lịch sử to lớn. Đây là một địa điểm để tôn thờ và tri ân một danh nhân của đất nước, danh nhân nối tiếp dòng dõi giòng họ Nguyễn Huy, một giòng họ nổi tiếng về con đường học hành, khoa cử và văn chương. Văn tài của ông chỉ còn lại khoảng 20 câu lục bát nên khó đánh giá thêm gì về ông. Qua hành trạng chúng ta chỉ biết được rằng ông là người đỗ đạt cao, làm quan thanh liêm, cương trực, thẳng thắn và tận tuỵ. Các tác phẩm còn lại cùng một số trích đoạn và điều trần, tấu khải của ông, chúng ta biết về ông là một nhà địa chí với những ký chú, bản đồ tương đối có giá trị. Một cây bút chính luận với lời lẽ xác đáng, chân thực, nhạy bén và là một hồn thơ với những vần thơ đượm chất trữ tình. Cùng với Nguyễn Huy Oánh, hai anh em ông đã tạo thành thế hệ đầu tiên của dòng văn thơ Nguyễn Huy, góp phần vào việc truyền bá đạo học ở đất Hà Tĩnh. Ông xứng đáng là người được hậu thế tôn vinh.
Dưới chân núi Long Mã Phụ Đồ, nơi có cây đa cổ thụ, nước suối trong xanh bốn mùa, núi đồi hùng vĩ, đầm ao sen xưa kia toả hương thơm ngát …đã làm say đắm tâm hồn bao tao nhân mặc khách khi viếng thăm chốn này đó là chùa Tiên Lữ (Tiên Lữ tự) xã Đức Lập. Trong một lần vãn cảnh nơi đây, nhà thơ, học giả Bùi Tồn Trai (Bùi Dương Lịch) đã từng cảm tác:
“Văn minh mở đế hiệu
Thần vật gửi quê ta
Núi Phượng, núi Voi chia cánh
Sông La, Minh hội hà
Cõi Hoan bày pháp tượng
Cửu Đức tự xung hoà
Biết rõ mạch truyền đến
Khe Khổng, núi Ni mà”
Chùa được xây dựng trong khoảng thời gian từ năm 1428 đến 1433, để thờ Phật và hai mẹ con bà Hoàng Hậu Bạch Ngọc và công chúa Huy Chân.
Theo “Nham cảo chùa Am”, Hoàng Hậu Bạch Ngọc tên thật là Trần Thị Ngọc Hào, con gái ông Trần Quang Thiệu (Nhiêu), một thường dân ở làng Tri Bản (Bi Bản) xã Thổ Hoàng. Vua Trần Duệ Tông (1372 – 1377) trong một lần du ngoạn qua vùng phía nam Cổ Đổ (tức Hương Sơn ngày nay) bắt gặp một người con gái có vẽ đẹp sắc nước hương trời, ăn nói đoan trang thuỳ mị nên hạ chiếu tuyển làm cung phi đưa về kinh thành Thăng Long phong làm Bạch Ngọc Hoàng Hậu, sinh ra công chúa Huy Chân (Trần Thị Ngọc Hiền), sau này là vợ của vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi). Năm 1377, sau khi vua Trần Duệ Tông chết ở thành Đồ Bàn (Quy Nhơn Bình Định ngày nay), trước nguy cơ cướp ngôi của Hồ Quý Ly. Hoàng Hậu Bạch Ngọc cùng con gái và một số tôn thất nhà Trần, gia nhân, tuỳ tùng rời bỏ kinh thành tìm về quê hương lánh nạn. Đến dưới chân vùng dãy núi Cốc và dãy núi Trà Sơn thấy đất đai hoang vu, dân cư thưa thớt bèn dừng chân khai hoang lập ấp, chiêu mộ binh sỹ, tích luỹ lương thảo chờ ngày khôi phục cơ nghiệp nhà Trần. Lập thành làng mạc từ Lâm Thao, Hoà Duyệt, Thượng Bồng, Hạ Bồng, Đồng Công, Thượng Nga, Lai Thạch xuống dưới chân dãy núi Thiên Nhẫn mà vùng Đồng Lạc, Hoà Yên là trung tâm trang trại của bà.
Khi Lê Lợi theo kế của Nguyễn Chích kéo quân vào Nghệ An xây dựng căn cứ địa trên dãy núi Thiên Nhẫn. Tướng Bùi Bị tình cờ gặp mẹ con bà Hoàng Hậu Bạch Ngọc liền dẫn về yết kiến nhà vua. Thấy công chúa Huy Chân có nhan sắc, Lê Lợi lấy nàng làm cung phi và dựng điện Phượng Hoàng cho Huy Chân ở. Bạch Ngọc Hoàng Hậu đã hiến cho nghĩa quân tất cả tiền của, lương thảo và trang trại của mình. Sau khi khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, bà xin nhà vua cho xây dựng hai ngôi chùa: Đó là chùa tiên Lữ ở Mỹ Xuyên và chùa Diên Quang (chùa Am) rồi về tu hành ở đó. Công chúa Huy Chân sinh hạ công chúa Trang Từ (Ngọc Châu) rồi củng xin về Chùa Am tu hành cùng với mẹ. Về sau công chúa Trang Từ củng về tu hành ở đây.
Chùa Tiên Lữ cổ nay đã không còn, ngôi chùa hiện nay được nhân dân xã Đức lập cùng với những người có hằng tâm, hằng sản trong vùng góp công, góp của tôn tạo xây dựng lại trong thời gian gần đây. Chùa là một minh chứng cụ thể sống động cho những công lao đóng góp to lớn của Hoàng Hậu Bạch Ngọc trong công cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh. Gắn liền với việc khai hoang lập ấp tạo nên một vùng dân cư rộng lớn trù phú cùng với sự phát triển của đạo Phật ở một vùng đất mới. Cuộc đời, sự nghiệp và đức hạnh của bà mãi mãi là tấm gương sáng để con cháu đời sau học tập, noi theo
Được xây dựng ở lưng chừng núi Am (Am Sơn), một ngọn núi hình chóp nón thuộc dãy Trà sơn, xung quanh là các ngọn rú Tròn, rú Voi, rú Tàng, rú Bạc, rú Nhắt…Chùa am (Diên Quang Tự) xã Đức Hoà quay mặt về hướng nam, lưng tựa vào vách núi. Hai bên có hai khe nước đổ vào Hồ Đông và Hồ Tây. Trước mặt là một thung lũng rộng xóm làng trù mật, con sông Ngàn Sâu hiền hoà, xa xa là dãy Trường Sơn hùng vĩ bốn mùa mây phủ. Trong khu vực chùa có nhiều cảnh trí thiên nhiên kỳ thú mà tạo hoá đã đặc biệt ưu đãi cho một công trình tôn giáo tín ngưỡng tôn nghiêm. Từ phía dưới đi lên chùa có rất nhiều viên đá lô nhô giống như một đám người đang quỳ lạy, gọi là “Bái Phật tăng”. Sau chùa nhều tảng đá dựng đứng gọi là “Đá thần công”, xung quanh chùa là rừng thông tĩnh mịch thâm nghiêm. Chùa Am có mặt bằng kiến trúc hình chữ công ( ), kiểu kiến trúc phổ biến của thời Lê, nội thất bố trí theo chiều dọc. Củng giống như các ngôi chùa khác, bàn thờ chính ở chùa Am phía trong cùng cao nhất là ba pho tượng Tam thế Phật, rồi đến các tượng Phật Di Đà tam Tôn, tượng Thích Ca sơ sinh và các tượng Nam Tào, Bắc Đẩu. Bên phải bàn thờ Phật xưa là tượng Bạch Ngọc Hoàng Hậu bằng đồng đặt trong khám gỗ sơn son thếp vàng (nay chỉ còn thờ di ảnh tượng của bà), bên trái thờ các vị Phật tăng. Phía trước chùa có năm ngôi tháp cổ là nơi đặt xá lỵ (tro hài cốt) của các bậc tu hành tại đây sau khi viên tịch.
Chùa Am là một trong những ngôi chùa cổ ít ỏi còn sót lại một cách tương đối nguyên vẹn ở Hà Tĩnh sau gần 600 năm tồn tại. Là nơi mà bà Hoàng Hậu Bạch Ngọc ngày đêm tu hành, sáng tối niệm Phật cầu mong làm điều thiện cho đời. Công đức ấy, tấm lòng ấy thật trong sáng cao đẹp biết bao. Chùa còn là nơi sinh hoạt văn hoá, nơi thực hiện các nghi thức tín ngưỡng tôn giáo, rủ bỏ những dục vọng tầm thường hướng tới thiện căn.
Nằm trong hệ thống đền, chùa gắn liền với quá trình hình thành các cộng đồng dân cư trong quá trình khẩn hoang của bà Hoàng Hậu Bạch Ngọc ở vùng Đức Thọ hiện nay còn có rất nhiều di tích lịch sử văn hoá khác như nhà thờ Trần Văn Bút, Trần Văn Bích, chùa Vền (Vạn Phúc Tự), đền Trần Duy… nhưng đẹp và nổi bật hơn cả là đền Liên Minh (xã Liên Minh).
Đền Liên Minh (còn gọi là đền Thánh Mẫu) nằm bên tả ngạn dòng sông La, giữa một vùng dân cư đông đúc trù phú, xa xa là dãy núi Thiên Nhẫn nơi có thành Lục Niên của Lê Lợi trong công cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh.
Ngôi đền hiện nay khá lớn, các kết cáu kiến trúc chính vẫn gần như nguyên vẹn như: Cột nanh, hồ bán nguyệt, tắc môn, nhà ngũ lâu cùng với ba toà thượng, trung và hạ điên. Truyền thuyết kể lại rằng sau khi Hoàng Hậu Bạch Ngọc mất (ngày 22/6 niên hiệu Hồng Đức), thể theo nguyện vọng của bà vua Lê Thánh Tông đã cho người đưa thi hài của bà về an táng tại quê hương (làng Tri Bản, huyện Hương Khê). Trên đường về chẳng may thuyền bị gió bão đánh đắm và nước lũ cuốn trôi. Thi thể của bà dạt vào làng Yên Thái xã Liên Minh. Được tin ấy nhà vua ra lệnh cho quân sỹ và nhân dân địa phương an táng và lập đền thờ bà tại vùng đất đó. Giao cho hai thôn Yên Mỹ, Yên Phú của làng Yên Thái trông coi và khói hương thờ phụng.
Đền Liên Minh được tạo tác chạm trổ khá đẹp, các hoạ tiết hoa văn hầu như có mặt khắp các kết cấu kiến trúc của ngôi đền từ ngoài vào trong. Nhưng giá trị nhất là nơi đây còn lưu giữ được một chiếc kiệu cổ (kiệu bát cống) sơn son thếp vàng, là một trong những long kiệu cổ đẹp nhất Hà Tĩnh hiện còn lưu giữ được. Các điểm đầu và cuối của đòn kiệu được chạm trổ hình đầu rồng vươn ra phía trước cực kỳ tinh xảo. Thân đòn tạo biểu tượng của hình rồng cách điệu. Các chi tiết khác trên thân kiệu đều được chạm trổ các hoạ tiết hoa văn theo các đề tài như: Tứ quý, hổ phù và các hoa lá dây leo cách điệu rất đẹp. Ngoài ra đền còn lưu giữ được 7 bản sắc phong từ thời Tây Sơn (Cảnh Thịnh) đến thời Nguyễn.
ở vùng thượng Đức Thọ còn có một ngôi đền khác đẹp nổi tiếng đó là Đền Cả Du Đồng (thường gọi là đền Hàng Tổng) thôn Vĩnh Khánh, xã Đức Đồng.
Đền thờ Bùi thúc Ngật, người có công lao khai phá, chiêu dân lập ấp lập nên xóm làng của cả tổng Du Đồng, mở mang nông tang (nghề nông nghiệp và trồng dâu nuôi tằm), mở trường dạy học đầu tiên ở vùng đất này. Bùi Thúc Ngật sinh vào giữa thế kỷ XV, sau khi đậu Hương cống ông được vua Lê giao chức Chánh đội trưởng, phó Thiên hộ quan kiêm Tổng giáo quan khai phá vùng thượng Đức Thọ tổng Du Đồng. Ông đã đem hết trí tuệ và sức lực cùng nhân dân biến những vùng đất chiêm trũng thành ruộng vườn phì nhiêu, tiêu diệt thú dữ, nuôi tằm dệt vải. Nhờ đó mà nghề nông phát triển, tổng Du Đồng trở thành một nơi có xóm làng trù mật, dân cư đông đúc. Ông còn mở trường dạy học cho nhân dân trong vùng. Sau khi ông mất để tỏ lòng thương tiếc ông nhân dân trong tổng đã chọn một mãnh đất đẹp ở thôn Vĩnh Thành xây dựng ngôi đền quanh năm hương khói thờ phụng.
Đền có mặt bằng hình chữ tam ( ), gồm: Thượng, trung và hạ điện. Trước cổng đền là hai cây thông cổ thụ và rất nhiều ao hồ tạo nên thế cận thuỷ. Phía sau là cây bàng lớn toả bóng che rợp cả một vùng trời, con sông nhỏ Hắc Giang lượn vòng uốn khúc như ôm lấy thôn Vĩnh Khánh rồi đổ ra sông Ngàn Sâu. Tam quan đền Du Đồng được làm bằng gỗ lim, gỗ mít, một gian hai vì kèo, mái lợp ngói mũi hài, bờ nóc đắp lưỡng long chầu nguyệt. Toàn bộ các đường xà, kẻ khâu đấm, rường và cửa võng đều được chạm trổ với kỷ thuật chạm lộng rất tỉ mỷ và tinh xảo với các đề tài dân gian gần gũi với đời sống sinh hoạt như tứ quý, cá vượt vũ môn, rùa đội cuốn thư, tre, trúc…Phía trên cửa võng là bức đại tự “Thần vi, Đức kỳ, thỉnh hỷ hộ”. Dù đứng ở góc độ nào thì những mảng chạm khác ở đây đều toát lên những nét đẹp sắc sảo, uyển chuyển. Đây không chỉ là một công trình kiến trúc mà còn là một tác phẩm điêu khắc nghệ thuật nổi tiếng tại Hà Tĩnh, từ ngày xưa nhân dân trong vùng đã có câu ca:
“Gác chuông Kẻ Thượng
Hương án Xa Lang
Tam quan Tự Đồng (Du Đồng)”
Nhà trung và thượng điện đều được làm bằng gỗ, trên các đường kẻ và khấu đầu đều chạm trổ các hoạ tiết hoa văn trang trí như chim phượng, hoa lá cách điệu, nhưng không tạp trung và rực rở như ở cổng tam quan mà có tính chất điểm xuyết. Mặc dù vậy các đường nét chạm trổ ở đây vẫn sắc sảo, uyển chuyển, mềm mại. Đặc biệt hệ thống kết cấu con dư ở nhà thượng điện là nét độc đáo không nơi nào có.
Đền cả Du Đồng là một công trình có sự thống nhất và hoàn thiện về địa lý, bố cục, kết cấu và kỷ thuật, mỹ thuật trong xây dựng. Những mảng chạm khắc của ngôi đền là không những chỉ mang giá trị lịch sử mà còn mang giá trị kiến trúc nghệ thuật vô giá mà các thế hệ cha ông ta đã sáng tạo ra trong lịch sử còn để lại.
Thấp thoáng dưới tán những cây bạch đàn trên một mảnh đất cao ráo bằng phẳng giữa cánh đồng khối 14 thị trấn Đức Thọ là đền Hồ Nam. Đền được xây dựng vào khoảng giữa thế kỷ XVI (đời vua Lê Anh Tông, thời Lê Trung Hưng). Ban đầu ngôi đền có ba toà thượng, trung và hạ điện được chạm trổ khá sắc sảo tinh vi, nay chỉ còn lại hai toà thượng, hạ điện và một am thờ Dược Sư bên cạnh. Là một di tích lịch sử văn hoá cổ, ra đời cách đây hàng trăm năm ở một vùng đất giàu truyền thống yêu nước và khoa bảng. Đền Hồ Nam ban đầu thờ các vị Thần có nguồn gốc là nhiên Thần, thiên Thần theo tín ngưỡng “Vạn vật hữu linh” của người Việt cổ (Cao Các Mạc Sơn là Thần núi, Hổ Nha Lẫm là Thần hổ còn Ngọc Nữ Song Đồng Phương Dung là thiên Thần). Nhưng cùng với sự hình thành và phát triển sầm uất của cộng đồng dân cư, sự hiển đạt và đóng góp của các vị tiên công, tiên hiền theo con đường khoa bảng, xuất thân từ cửa Khổng sân Trình, mà dần dần việc thờ cúng được chuyển sang các vị Thần có nguồn gốc từ nhân Thần đã có nhiều công lao cống hiến cho quê hương đất nước, đó là: Tiến sỹ, Tả thị lang bộ Hộ, Đông các hiệu thư Phấn nghĩa hầu Trần Dực, Thượng thư Hành khiển Bùi Sằn và Nguyễn Thế Lộc.
Trần DựcT, một con người thông minh tiết nghĩa, có xuất thân nghèo khó nhưng giàu nghị lực phấn đấu vươn lên. Sau khi hiển đạt đã không quên nguồn gốc của mình bằng việc xây lại cây cầu khi ông ngồi học khi xưa để nhắc nhở không chỉ đối với con cháu mà còn mãi đối với các thế hệ mai sau. Sự hi sinh của ông thể hiện một tấm lòng trung quân ái quốc, góp phần vào việc ổn định tình hình chính trị trong nước lúc bấy giờ. Theo gia phả dòng họ: “Trần Dực khi còn nhỏ, nhà nghèo phải đi chăn trâu, ông cho trâu ăn cỏ bên cầu rồi vào mượn sách ở trường học gần đó mang ra cầu ngồi, vừa chăn trâu vừa đọc sách. Sau hai năm liên tục học theo cách ấy mà ai củng phải thừa nhận là ông học giỏi, đi thi đỗ Hương Cống. Lúc ra thành Thăng Long thi Hội vì không có tiền ăn, ông phải dấu tên họ làm người đầy tớ gánh thuê, giặt quần áo, thổi cơm nước cho một ông Cống lạ mặt giàu có. Đến trường thi ông còn phải sắp xếp mọi thứ đưa ông Cống nọ vào tận chỗ ngồi, mọi việc xong xuôi ông mới lo đến phần việc của mình. Vất vả không nói hết nhưng rồi mọi việc củng đâu vào đấy cả. Thi xong yết bảng truyền loa ông đỗ đầu kỳ thi Hội. Người thuê ông làm đầy tớ vẫn không biết. Khi ông tìm đến gặp mặt, người ấy giật mình kinh ngạc, lạy tạ không ngớt. Khi ra làm quan ông cho tu sửa cái cầu mà ông thường xuyên ngồi học ngày trước. Từ đó dân làng gọi tên cầu ấy là cầu Thị Lang. Ông dựng bia bên cầu ghi lại sự việc, cầu đến nay vẫn còn”.
Thượng thư Hành khiển Bùi Sằn là người đã có công rất lớn trong việc giáo dục đào tạo các nho sỹ. Các tư liệu và thư tịch cổ nói về ông (và có thể có các trước tác của ông) hiện không còn nữa, nhưng chắc rằng ông phải là một nhà nho uyên thâm về học vấn, giàu nhân tâm nên mới thu phục được đông đảo học trò trong đó không ít người là con nhà thân vương quyền quý. Trong giai đoạn lịch sử đầy rối ren nửa đầu thế kỷ XVI (cuối thời Hậu Lê, đời các vua Lê Túc Tông – 1504, Lê Uy Mục 1505 – 1509, Lê Tương Dực 1510 – 1516 và Lê Chiêu Tông, Lê Cung Hoàng 1516 – 1527), ông đã chọn cho mình thái độ ứng xử trước thời cuộc là lánh mình ẩn dật (xu hướng “xử”). Tuy nhiên khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, ông đã phất cao ngọn cờ nghĩa đứng lên chống lại họ Mạc theo tư tưởng chính thống của nho gia “Trung quân ái quốc”. Tiếc rằng việc lớn chưa kịp khởi sự thì ông mắc bệnh rồi mất. Vì vậy trong bài thơ của mình Hoàng giáp Bùi Dương Lịch đã lấy làm tiếc cho một con người “Sinh bất phùng thời” nếu không dễ có “…đại văn hào”. Bài thơ như sau:
“Bùi công Hành khiển quan triều trước
Trường học ngày xưa dựng trước bàu
Hương sách cỏ hoa xuân phảng phất
Dòng nho giếng suối nước trong veo
Sinh thời thịnh trị sinh là đáng
Thọ có tài danh thọ mới lâu
Mai Thuỷ trong ngần, Hồng Lĩnh biếc
Gặp thời dễ có đại văn hào”
Còn Nguyễn Thế Lộc, xuất thân trong một dòng tộc nối đời làm tướng ở làng Thượng Xá, huyện Nghi Lộc, xứ/trấn Nghệ An. Một “Vọng tộc” lớn phát về nghiệp võ mà những người khai sáng nên thanh thế dòng họ này bắt đầu từ Nguyễn Hội cùng hai người con là Nguyễn Biên và Nguyễn Xí. Cả ba người đều là những vị khai quốc công thần thời Hậu Lê (1428 – 1527). Trong đó Nguyễn Xí là một trong những anh hùng xuất sắc nhất của Lê Lợi trong cuộc kháng chiến giành độc lập chống quân xâm lược nhà Minh. Là công thần của bốn đời vua đầu nhà Hậu Lê: Thái Tổ (1418 – 1433), Thái Tông (1433 – 1442), Nhân Tông (1442 – 1459) và Thánh Tông (1459 – 1497). Xuất thân trong một dòng họ như vậy, rất có thể Nguyễn Thế Lộc là người có công rất lớn trong việc khẩn hoang lập ấp, lập nên làng Phúc Thái hoặc trong công cuộc chiến tranh chống lại họ Mạc nên được người dân thờ tự ở đền.
Ba con người, ba cuộc đời và sự nghiệp sống gần như trong cùng một giai đoạn đầy biến động của lịch sử dân tộc đều có những đóng góp xứng đáng của mình cho quê hương đất nước. Quả cảm công đức ấy các ông được các vua triều Nguyễn (đối với Trần Dực) và nhân dân các làng Yên Trung, Thái Yên, Phúc Thái tôn làm thần và thờ làm Thành Hoàng của làng (người bảo trợ cho dân chúng), bốn mùa hương khói thờ phụng.
Nằm về phía Tây của đền Hồ Nam, thuộc địa phận thôn Yên Hội xã Tùng ảnh (bóng tùng bên bờ Tam Soa – sông La) là nhà thờ Bùi Dương Lịch. Ông sinh năm 1757, tự là Tồn Thành, hiệu là Thạch Phả và Tồn Trai. Xuất thân trong một gia đình nho học nổi tiếng. Năm 17 tuổi ông đậu Hương cống. Đến năm 1787 ông đỗ Hội nguyên rồi thi đình đỗ Đình nguyên nhị giáp Tiến sỹ (Hoàng giáp). Sau khi Tây Sơn lên ngôi, biết ông là người có tài vua Quang Trung đã mời ông vào làm việc ở Sùng chính viện dưới quyền của La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp. Sau khi vua Quang Trung mất (1792) Sùng chính viện ngừng hoạt động ông về quê mở trường dạy học. Khi Gia Long lên ngôi (1802), ông lại bị triệu ra làm Đốc học Nghệ An, đến 1808 thì ông cáo quan về dạy học và viết sách rồi mất vào năm Mậu tý (1828) tại quê nhà.
Xuất thân trong gia đình nhà nho, lại chịu ơn sâu nặng của triều đình nhà Lê nhưng Bùi Dương Lịch lại sống trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động giữa cuộc tranh giành quyền lực của hai thế lực Lê – Trịnh, cuộc khởi nghĩa của phong trào Tây Sơn, quân Thanh xâm lược nước ta, rồi nhà Nguyễn lên ngôi. Nên ông luôn ở trong tâm trạng “Ưu thời mẫn thế’, không hứng thú gì với việc làm quan mà dành tất cả tâm huyết, sức lực cho việc trước tác, làm thơ và dạy học. Chính ở đây ông đã gặt hái được nhiều thành tựu rất đáng khâm phục. Rất nhiều học trò của ông đã đỗ đạt rất cao trong các kỳ thi tiến sỹ trong đó có cả con trai, con rể của ông. Về trước tác ông đã để lại cho đời sau nhiều tác phẩm có giá trị như “Bùi gia huấn bài”, gồm 2000 câu chữ Hán, “ốc lậu thoại thi văn” gồm 500 bài thơ vịnh cảnh sông núi, nhân vật lịch sử, “Lê quý dật sử” cuốn biên niên chép các sự kiện lịch sử từ cuối thời Lê đến thời Tây Sơn (1758 – 1793), “Yên Hội thôn chí” là cuốn lịch sử địa lý quê hương ông. Đặc biệt là tác phẩm “Nghệ An ký” viết đầu thế kỷ XIX thời Gia Long, khắc in thời Tự Đức, gồm hai phần “địa chí” và “nhân vật chí” ở trấn Nghệ An xưa. Đây là tác phẩm hết sức có giá trị và đáng tin cậy, được các học giả nghiên cứu từ trước đến nay đánh giá rất cao.
Nhà thờ Bùi Dương Lịch được xây dựng năm 1808, có hai toà: thượng điện và bái đường bình dị như nhiều nhà thờ danh nhân khác, dòng họ khác nhưng đây lại là quà tặng của những người học trò củ ghi nhớ ơn sâu nặng của ông. Đây là một nghĩa cử hết sức cao đẹp, đáng trân trọng của học trò và là bằng chứng của tinh thần “Tôn sư trọng đạo” của người dân xứ Nghệ. Nơi đây còn có một hiện vật rất có ý nghĩa, đó là tấm bia và bài văn bia bằng đá được làm từ năm 1866 (Sau 38 năm kể từ khi ông qua đời). Tấm bia do người con rể là Nguỵ Thiện Phủ Thượng thư hộ Bộ chế tác, con trai là Bùi Thúc Kiên tiếp nối hoàn thành. Văn bia do Án sát tỉnh Hưng Yên Nguyễn Văn Siêu soạn. Bài văn gồm 500 chữ, là bản nhận xét cô đọng toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp của Hoàng giáp Bùi Dương Lịch.
Cùng nằm ở địa phận xã Tùng ảnh có nhà thờ và mộ Chấp lệnh công Lê Bôi. Ông là vị khai quốc công thần, vị quan Đại thần thời Hậu Lê, thuỷ tổ dòng họ Lê ở xã Tùng ảnh. Lê Bôi sinh năm 1380 tại xã Tình Di, huyện Đỗ Gia (nay là xã Sơn Diệm, huyện Hương Sơn tỉnh Hà Tĩnh), trong một gia đình khoa bảng và khá giả. Là người thông minh có sức khoẻ, khi quân Minh xâm lược nước ta ông đã xếp bút nghiên theo việc binh đao. Ông chiêu mộ binh sỹ, tích luỹ lương thảo, luyện tập binh pháp chờ thời cơ đánh giặc. Khi Lê Lợi giương cao ngọn cờ nghĩa kêu gọi hào kiệt bốn phương ông đã tìm đến và được Lê Lợi phong làm tướng chỉ huy đội quân 500 nghĩa sỹ tại quê nhà. Trận đánh đầu tiên góp phần thay đổi cục diện thế trận ông tham gia là trận Khả Lưu – Bồ ải (giáp ranh giữa huyện Thanh Chương và huyện Đỗ Gia). Sau đó ông cùng nghĩa quân Lam Sơn tham gia giải phóng vùng Tân Bình – Thuận Hoá, rồi vây đánh thành Nghệ An. Đánh thành Khâu Ôn (Lạng Sơn). Năm 1427, khi Trấn thủ Quảng Tây đem 5 vạn quân và 5000 con ngựa sang cứu viện đến cửa ải Pha Luỹ (Mục Nam Quan) ông cùng tướng Lê Lựu đánh cho tan tác, chém hơn 3000 quân giặc, bắt hơn 500 chiến mã. Năm 1428, khi giang sơn thu về một mối Lê Lợi xưng Vương, ban thưởng cho những người có công lao, tất cả có 93 người. Trong đó Lê Bôi đứng hàng thứ 3 trong 14 Liệt hầu và hàng thứ 26 trong các Á hầu, được phong ấp và hưởng lộc ở Tùng ảnh, vì thế ông trở thành thuỷ tổ của dòng họ Lê xã Tùng ảnh ngày nay. Ông mất năm 1458, mộ táng tại xứ Ma Cô (thôn Châu Tượng, Tùng ảnh) cho đến tận ngày nay. Con cháu ông về sau nhiều người đỗ đạt và có nhiều đóng góp cho quê hương đất nước.
Nhà thờ và mộ Lê Bôi được xây dựng khá khang trang, là nơi tưởng niệm và tri ân vị khai quốc công thần triều Lê, là điểm văn hoá du lịch tâm linh hấp dẫn đối với đông đảo khách tham quan.
Nằm cạnh con đường nối liền giữa quốc lộ 8A củ cắt ngang cánh đồng thôn Đông Thái ra tận đê La Giang là nhà thờ Phan Đình Phùng thuộc thôn Đông Thái xã Tùng ảnh. Đây là nơi thờ tự và tưởng niệm Đình nguyên tiến sỹ Phan Đình Phùng. Một nhà khoa bảng xứ Nghệ yêu nước nồng nàn và là vị anh hùng dân tộc, Sơn trung tể tướng trong phong trào Cần vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX (1885 – 1895).
Cụ Phan Đình Phùng hiệu là Châu Phong, sinh năm Đinh mùi (1847), mất năm ất mùi (1895), xuất thân trong một gia đình có truyền thống khoa bảng. Thân sinh là cụ Phó bảng Phan Đình Tuyển và thân mẫu là bà Phan Thị Long ở làng Đông Thái, xã Việt Yên Hạ, tổng Việt Yên, huyện La Sơn nay là xã Tùng ảnh, huyện Đức Thọ. Năm 1876 ông đỗ Cử nhân trường Nghệ An, đến năm 1887 ông đỗ Đình nguyên Tiến sỹ (đỗ đầu). Được bổ ra làm quan ở huyện Yên Khánh tỉnh Ninh Bình, nổi tiếng là người cương trực ngay thẳng. Sau đó ông được triệu về kinh giữ chức Ngự sử (can gián vua) ở Viện đô sát. Năm 1883 vì chống lại việc phế truất vua Dục Đức của quan Đại chính phụ thần Tôn Thất Thuyết (lúc này là Thượng thư bộ Binh, người đứng đầu phái chủ chiến ở triều đình), ông bị cách chức đuổi về quê hương. Tháng 7/1885, sau khi binh biến ở kinh thành Huế thất bại, Tôn Thất Thuyết đã đưa vua Hàm Nghi và lực lượng chủ chiến ra sơn phòng Quảng Trị phát hịch Cần vương lần thứ nhất và lần thứ hai (9/1885) tại sơn phòng Phú Gia, Hương Khê, Hà Tĩnh. Lúc này cụ Phan Đình Phùng sau khi bị cách chức đuổi về quê hương đã tích cực chiêu mộ nghĩa sỹ, tập hợp lục lượng, tích luỹ lương thảo chuẩn bị chống Pháp. Được tin ấy ông liền dẫn một số sỹ phu La Sơn đến bái mệnh vua và ông được phong làm Tán lý quân vụ Đại thần Thống lĩnh các đạo quân Cần vương chống Pháp. Cuộc khởi nghĩa do ông lãnh đạo đã kéo dài 10 năm (1885 – 1895), trên một địa bàn rộng khắp bốn tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình đã làm cho thực dân Pháp thất điên bát đảo. Đại bản doanh hoạt động chủ yếu tại căn cứ Vũ Quang – Hương Khê, giáp giới với các huyện Hương Sơn, Đức Thọ. Nhân dân khắp nơi kéo về gia nhập nghĩa quân trong đó có nhiều tướng lĩnh có tài như Cao Thắng, Lê Văn Trạc, Nguyễn Mục…Nghĩa quân đã tự tạo được súng trường kiểu 1784 của Pháp, trang bị được hơn 500 khẩu súng với đạn dược đầy đủ. Con số nghĩa quân có lúc lên đến 1000 người chia làm 15 quân thứ. Nghĩa quân chủ yếu dựa vào thế núi rừng hiểm yếu để phòng thủ và chống giặc càn quét và đã đánh thắng nhiều trận lớn ở Phủ Quỳ, Cầu Giát (10/1890), gây cho quân địch nhiều tổn thất. Đầu năm 1893, thực dân Pháp điên cuồng càn quét vào căn cứ địa của nghĩa quân. Trước tình hình đó Phan Đình Phùng quyết định mở một cuộc tấn công quy mô lớn và tỉnh lỵ Nghệ An nhưng không thành, phó tướng của ông là Cao Thắng đã hy sinh. Sau đó quân Pháp liên tục càn quét tấn công vào những khu vực đồn trại của nghĩa quân ở vùng Đại Hàm, Ngàn Cơ, núi Mò Ho. Trong điều kiện bị bao vây cô lập, lương thực, thuốc men, vũ khí đạn dược thiếu thốn lực lượng nghĩa quân ngày càng bị hao hụt. Nhưng trong giai đoạn này có một trận đánh nổi tiếng nhất là trận đánh trên sông Ngàn Trươi, khi quân giặc kéo vào căn cứ địa trên lưu vực sông Ngàn Trươi cụ đã bí mật cho người ngăn nước phía thượng nguồn rồi vót nhiều cọc gỗ thả nổi lên đấy đồng thời cho quân mật phục hai bên bờ sông. Quân Pháp kéo đến, thấy lòng sông cạn, nước chảy chậm liền kéo quân sang. Khi quân địch đã lọt vào trận địa mai phục, sau tiếng pháo hiệu nghĩa quân hai bên xông ra tiêu diệt. Trận đánh này nghĩa quân đã tiêu diệt được hơn 100 tên địch và ba viên chỉ huy, thu được nhiều vũ khí đạn dược. Sau trận ấy thực dân Pháp cay cú chúng tập trung lực lượng với hơn 3000 tên điên cuồng tấn công vào căn cứ Vũ Quang. Trong một trận càn Phan Đình Phùng đã bị thương rồi hy sinh vào ngày 28/12/1895, thọ 49 tuổi. Thi hài của ông được chôn dưới chân núi Quạt. Sau khi dập tắt được cuộc khởi nghĩa, nhằm làm nhụt chí chống Pháp của nhân dân ta, Nguyễn Thân đã cho người đào hài cốt của cụ lên đốt thành tro, nhồi vào thuốc súng bắn xuống dòng sông La. Thương tiếc vị anh hùng dân tộc, nhân dân ta đã xây dựng một ngôi mộ tưởng niệm cụ trên đồi Nê Sơn, thường xuyên hương khói thờ phụng.
Nhà thờ Phan Đình Phùng đã qua nhiều lần trùng tu tôn tạo, lần gần đây nhất là năm 2008 trên một khuôn viên rộng, gồm có: Thượng điện, hạ điện và hai nhà tả vu và hữu vu. Đôi cột nanh phía trước ghi đôi câu đối là sự đánh giá ghi nhận của hậu thế đối với những công lao cống hiến to lớn của cụ đối với quê hương đất nước
Phiên âm: “Đại đức an dân thiên cổ thịnh
Công cao hộ quốc vạn niên trường”
Nghĩa là: Đức lớn an dân ngàn năm thịnh
Công cao giúp nước mãi mãi bền
Phần mộ của cụ hiện nay nắm ở gần đỉnh đồi Nê Sơn là nơi cao ráo thoáng đãng nhất thể hiện sự uy nghi và cung kính của hậu thế đối với bậc tiền nhân. Mộ được ghép bằng đá thanh màu xanh, đỉnh mộ được tạo hình chóp nón trên có gắn hình bông sen. Đặc biệt là tấm bia bằng đá được khắc hai mặt bằng chữ quốc ngữ do ông Trần Huy Liệu, Viện trưởng viện sử học biên soạn bằng chữ quốc ngữ. Nội dung tóm lược cuộc đời và sự nghiệp, tinh thần vì nước quên thân vì dân phục vụ, đức hy sinh cao cả của cụ, ca ngợi cuộc khởi nghĩa do cụ lãnh đạo và tinh thần yêu nước của nhân dân bốn tỉnh Thanh – Nghệ – Hà - Quảng.
Cùng nằm trên địa phận xã Tùng ảnh còn có một di tích lịch sử văn hoá quan trọng và rất có ý nghĩa to lớ, đó là khu di tích lưu niệm đồng chí Trần Phú. Đây là điểm du lịch văn hoá tâm linh hàng năm thu hút đông đảo khách tham quan ở trong và ngoài nước, là sợi chỉ đỏ, nơi gặp gỡ của những con tim hướng về nguồn cội, về Đảng và truyền thống đấu tranh cách mạng của nhân dân ta.
Trong dòng chảy lịch sử Việt Nam những thập niên đầu của thế kỷ XX, đã xuất hiện một tên tuổi lớn, một trí tuệ lớn và một nhân cách lớn. Đó là đồng chí Trần Phú, người soạn thảo Luận cương chính trị – Tổng bí thư đầu tiên của Đảng. Đồng chí Trần Phú sinh ngày 1/5/1904 tại thôn An Thổ, xã An Dân, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Nguyên quán tại đây, xã tùng ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Thân sinh là cụ Trần Văn Phổ, sinh năm ất sửu (1865), mất năm Kỷ dậu (1909). Năm 1897, sau khi đỗ giải nguyên (đỗ đầu) trường Nghệ An, cụ được bổ về làm Giáo thụ huyện Đức Thọ (người trông coi công việc giáo dục của một huyện, tương đương với chức danh trưởng phòng giáo dục hiện nay). Năm 1901, triều đình Huế điều chuyển cụ vào dạy học ở huyện Tuy An tỉnh Phú Yên. Đến năm 1907, triều đình Huế lại điều chuyển cụ ra làm tri huyện huyện Đức Phổ tỉnh Quảng Ngãi. Mặc dù làm quan nhưng cụ rất thanh liêm, khi phong trào chống sưu thuế ở Trung kỳ nổi lên vì chống lại lệnh của thực dân Pháp đàn áp cuộc khởi nghĩa cụ đã tuẫn tiết tại huyện đường Đức Phổ vào đêm 19/4/1909. Thân mẫu là bà Hoàng Thị Cát, một người phụ nữ nông dân cần cù chất phác quê ở xã Châu Dương huyện Nghi Lộc tỉnh Nghệ An. Sau khi cụ Phổ mất gia đình đồng chí Trần Phú lâm vào cảnh khốn cùng, thực dân Pháp đã đuổi cả gia đình ra khỏi huyện đường. Bà Cát không thể mang theo sáu người con trở về Hà Tĩnh, đành lếch thếc dắt díu nhau đi về phía Tây thành Quảng Ngãi mở một ngôi hàng nước kiếm sống qua ngày. Hơn một năm sau vì cuộc sống quá vất vả và quá buồn phiền, bà đã qua đời vào một ngày cuối thu năm 1910. Sau khi bà Cát mất, mấy anh chị em bơ vơ lưu lạc một người một phương. Đồng chí Trần Phú và đồng chí Trần Ngọc Danh hai người con bé nhất được người dì đưa về Quảng Trị cho ăn học và học hết bậc tiểu học ở đấy. Mùa thu năm 1918, đồng chí Trần Phú vào học trường Quốc học Huế. Sống nơi kinh thành hoa lệ với nhiều cảnh đời ngang trái đồng chí ngày càng thấy rõ ràng hơn nổi nhục của người dân mất nước. Tại đây đồng chí được cụ Võ Liêm Sơn khơi dậy tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc. Lúc này các phong trào yêu nước của các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh đã ảnh hưởng rộng khắp cả nước. Mặc dù rất khâm phục và yêu mến các cụ nhưng đồng chí và các bạn đã sớm nhận thấy các phong trào này có phần không đúng đắn với xu hướng cách mạng lúc bấy giờ. Tháng 10/1922, sau khi đỗ đầu kỳ thi Thành chung ở Huế đồng chí được bổ về làm giáo học dạy ở trường tiể học Cao Xuân Dục thành Vinh. Thành Vinh lúc này là lò lửa cách mạng, nơi có phong trào đấu tranh của công nhân và nhân dân khá sớm. Tại đây có dịp gần gũi với nhân dân lao động, lại được đọc báo ‘người cùng khổ” (Leparia) của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc đồng chí đã thấy đó chính là nguồn ánh sáng mới. Phong trào ngày càng lên cao đã dẫn đến một sự kiện chính trị quan trọng. Mùa hè 1925, tại núi Con Mèo – Bến Thuỷ đồng chí Trần Phú và một số nhà cách mạng ở Trung kỳ đã họp và thành lập hội Phục Việt (là một tổ chức giao thời của một số người thuộc hai nhóm cựu chính trị phạm củ và các giáo viên, sinh viên tiến bộ). Lão chí sỹ Lê Văn Huân một cựu chính trị phạm ở Côn Đảo mới về củng tham gia vào tổ chức này. Sau cuộc họp đó Hội thành lập một chi nhánh ở Vinh. Hoạt động của Hội Phục Việt là dạy chữ quốc ngữ cho công nhân và nhân dân lao động ở Vinh, Hội còn dấy lên tinh thần yêu nước cho nhân dân địa phương. Vào khoảng tháng 4/1924, đồng chí nhận nhiệm vụ sang Lào vận động cách mạng tới Pạc Hin Bun. Tại đây đồng chí đã có dịp đi sâu tìm hiểu cuộc đời cơ cực của những người công nhân mỏ. Chuyến đi này đã giúp đồng chí có những hiểu biết về tình hình thực tế ở Lào để sau này giúp Đảng đề ra những đường lối thích hợp cho cách mạng toàn Đông Dương. Tháng 6/1924, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từ Pháp sang Liên Xô dự Hội nghị quốc tế cộng sản lần thứ V, sau đó người giữ trọng trách phụ trách Uỷ viên Đông Phương bộ, phụ trách Cục Phương Nam của Quốc tế cộng sản (quốc tế III), rồi về hoạt động ở Trung Quốc. Trong thời gian ở Trung Quốc, Người thành lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Châu và đến tháng 6/1925 xây dựng tổ chức Tâm tâm xã thành Đảng Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội ở Quảng Châu. Được tin ấy Ban lãnh đạo Hội Phục Việt sau khi đổi tên thành Hội Hưng Nam, Việt Nam Cách Mạng Đảng liền cử một đoàn đại biểu do đồng chí Trần Phú phụ trách sang Quảng Châu tìm gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc để đề nghị hợp nhất các tổ chức cách mạng Đảng ở trong và ngoài nước. Đến Quảng Châu vào vào đầu tháng 8/1926, đoàn được đưa về trụ sở của Đảng Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng. Đồng chí Trần Phú và các bạn của anh được tham dự lớp Huấn luyện chính trị do Đảng này tổ chức. Đồng chí lấy bí danh là Lý Quý, toàn lớp có khoảng 20 học viên. Lớp học bế mạc vào cuối tháng 10/1926 và đồng chí Trần Phú được kết nạp vào Việt Nam Thanh Niên Cộng Sản Đoàn. Từ đây đồng chí đã được giác ngộ theo chủ nghĩa Cộng Sản để sau này trở thành người học trò xuất sắc, người trợ thủ đắc lực của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Trở về nước đồng chí được phân công về hoạt động ở Nghệ An và Trung Kỳ. Tháng 12/1926, đồng chí Trần Phú về đến Vinh, thực dân Pháp biết đồng chí đã về nước nên lùng bắt ráo riết. Mùa xuân năm 1927, đoàn thể lại cử đồng chí sang Quảng Châu tìm gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Tới Quảng Châu đồng chí được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cử sang học tại trường Đại học Phương Đông ở Mat – xcơ - va (Liên Xô). Trong thời gian này đồng chí lấy tên là Likivây.
Đầu năm 1930, sau khi tốt nghiệp đồng chí Trần Phú từ Liên Xô qua Đức, Bỉ, Pháp và Hà Lan bí mật về tới Sài Gòn vào ngày 8/2/1930 mang theo kiến thức của một nhà lý luận có tài. ở Sài Gòn ít ngày đồng chí sang Hồng Kông và tháng 4 rời Hồng Kông về Hải Phòng rồi đáp xe lửa lên Hà Nội. Tới Hà Nội, đồng chí đề nghị với Đảng cho đi khảo sát tình hình thực tế ở một số địa phương. Đồng chí xuống Nam Định, sau đó sang Thái Bình và khu mỏ Hòn Gai. Đầu tháng 7/1930, đồng chí từ Hòn Gai về đến Hà Nội và được bầu vào Ban Chấp hành Trung Ương lâm thời, đồng thời được phân công dự thảo “Luận cương chính trị của Đảng”. Đồng chí đã bí mật trú ngụ tại số nhà 90 hàng Bông Nhuộm. Tại đây đồng chí đã khởi thảo bản Luận cương chính trị nổi tiếng của Đảng. Bản Luận cương được thông qua tại Hội nghị Trung Ương lần thứ nhất họp ở Hương Cảng – Trung Quốc tháng 10/1930. luận cương là sự bổ sung, phát triển và hoàn chỉnh “Chính cương và sách lược Vắn tắt” của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi thảo tháng 2/1930. Hội nghị đã nhất trí đổi tên Đảng thành Đảng Cộng Sản Đông Dương và đồng chí Trần Phú được chính thức bầu làm Tổng bí thư đầu tiên của Đảng. Sau Hội nghị đồng chí rời Hương Cảng về Sài Gòn vào cuối tháng 11/1930. Lúc này Sài Gòn đang bị địch khủng bố trắng, nhiều cơ sở của ta bị lộ, nhiều chiến sỹ cộng sản bị địch bắt và hy sinh. Vào sáng ngày 18/4/1931 đồng chí đã bị địch bắt tại số nhà 66 đường Săm Pa Nhơ. Thực dân pháp đã giam giữ đồng chí ở bót Pôlô rồi bót Catina. Sau những lần hỏi cung không mang lại kết quả, chúng đã đưa đồng chí về Khám Lớn để chờ xét xử. Sống nơi tù ngục đoạ đày, sức khoẻ đồng chí ngày càng sa sút, bệnh tràng nhạc tái phát và bệnh viêm phổi ngày thêm trầm trọng. Tới tháng 8/1931 thì sức khoẻ đồng chí bị quỵ hẳn. Bọn cai ngục đành phải đưa đồng chí vào nhà thương Chợ Quán để điều trị và tới sáng ngày 6/9/1931 đồng chí đã vĩnh biệt đồng bào, đồng chí thân yêu trên tay những người đồng đội. Để lại cho toàn Đảng, toàn dân một tấm gương ngời sáng với lời trăn trối cuối cùng “Hãy giữ vững chí khí chiến đấu”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá: “Đồng chí Trần Phú là một người con ưu tú của Đảng và nhân dân đã oanh liệt hy sinh cho cách mạng”.
Gần 70 năm xa cách, thể theo nguyện vọng của nhân dân, sau khi tìm được hài cốt đồng chí Trần Phú. Tại dinh Thống Nhất Đảng và nhà nước ta đã tổ chức trọng thể lễ truy điệu và di dời hài cốt đồng chí về an táng tại quê hương ngày 12/1/1999.
Khu di tích lưu niệm đồng chí Trần Phú toạ lạc trên một khuôn viên rộng bên cạnh bờ đê la Giang, dưới bóng mát của những cây nhãn, cây xà cừ quanh năm xanh tốt. Khu lưu niệm gồm có nhà thờ tiểu chi họ Trần và nhà Trưng bày lưu niệm đồng chí Trần Phú. Nhà thờ tiêu chi họ Trần nguyên là nhà dân dụng được cụ Trần Viết Tân (cố nội của đồng chí Trần Phú) xây dựng vào năm 1862, sau đó được thân sinh đồng chí là cụ Trần văn phổ kế tự. Khi cụ Phổ vào Nam làm quan mang theo cả gia đình thì ngôi nhà được giao cho ông Đồ Cầu (chú ruột đồng chí Trần Phú) thừa hưởng. Vào khoảng những năm 1930, khi ông Đồ Cầu làm được căn nhà 3 gian kế bên thì ông hiến tặng ngôi nhà cho dòng họ và từ đấy tới nay ngôi nhà trở thành nhà thờ tiểu chi họ Trần. Ngôi nhà này, trong thời gian đồng chí học tập tại Huế và trong thời gian dạy học ở trường Cao Xuân Dục thành Vinh đồng chí thường về thăm nhà vào mỗi dịp hè . Vì vậy ngôi nhà trở thành di tích gốc nơi thờ tự vong linh tiên tổ họ Trần và nơi tưởng niệm, thờ tự vong linh đồng chí Trần Phú. Bên cạnh là Nhà trưng bày lưu niệm đồng chí có diện tích 360 m2, trưng bày rất nhiều tài liệu hiện vật về cuộc đời và sự nghiệp đồng chí Tổng bí thư Trần Phú.
Toạ lạc trên một khuôn viên rộng gần 7ha ở khu vực đồi Quần Hội thôn Châu Linh xã Tùng ảnh là khu lăng mộ đồng chí Trần Phú. Là một nơi có địa thế đẹp, sông núi hữu tình. Bên núi Tùng Lĩnh, trước bến Tam Soa (ba giải lụa), nơi hội tụ của hai con sông Ngàn Sâu và Ngàn Phố, bắt nguồn từ các huyện Hương Sơn, Hương Khê và Vũ Quang tạo nên dòng sông La thơ mộng, một trong những con sông lớn trong vùng nổi tiếng cả một châu, đã đi vào thơ ca từ ngàn đời nay và trở thành một phần tâm hồn, máu thịt, tình cảm của người dân nơi đây. Dòng sông La uốn mình qua chín xã của huyện Đức Thọ hợp lưu với dòng sông Cả (Nghệ An) ở ghềnh Yên Cự tạo thành dòng sông Lam. Sông La cùng với núi Hồng đã trở thành biểu tượng, thành tâm thế của người Hà Tĩnh. Phía bên kia bờ sông Ngàn Phố là quê hương của Nguyễn Tuấn Thiện vị danh tướng trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh của khởi nghĩa Lam Sơn, của danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hưu Trác với tác phẩm “Y tông tâm lĩnh” nổi tiếng, là quê hương của vị tướng trẻ tài ba Cao Thắng trong phong trào Cần Vương chống Pháp của Phan Đình Phùng và còn nhiều, rất nhiều các danh nhân khác mà tên tuổi và cuộc đời của họ đã làm rạng danh mảnh đất Hồng Lam. Xa xa thấp thoáng dưới bóng mây che phủ sớm chiều là dãy núi Thên Nhẫn nơi có thành Lục Niên (1418 – 1424) của nghĩa quân Lam Sơn, nơi La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp sống ẩn dật. Cảnh sắc ấy, con người ấy đã được bài “Văn thúc ước” khắc hoạ:
“Trước Tùng Lĩnh nhơn nhơn dăng cánh phượng
Bút văn phong non tháp đôi tầng
Sau La Giang cuồn cuộn uốn lưng rồng
Gềnh ngân đới nước thu đôi ngã
Đất vẹn thu mọi vẽ thanh kỳ
Đời giọt thấy nhiều tài phụ tá”
Khu mộ Tổng bí thư Trần Phú được xây dựng vào tháng 2/2000, hoàn thành vào cuối tháng 4/2004 trong lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh đồng chí (1/5/1904 – 1/5/2004). Nằm ở lưng chừng đồi Quần Hội, mặt hướng về bến Tam Soa, hai bên là xóm làng đông vui trù mật. Đường lên mộ được ốp bằng đá chẻ Thanh Hoá. Phía trước là bức phù điêu bằng đá khắc hoạ những hình ảnh đấu tranh của nhân dân ta từ khi Đảng ra đời như phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930 – 1931), cách mạng tháng 8/1945, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược và hình ảnh quê hương đất nước trên con đường đổi mới. Phần mộ đồng chí ốp bằng đá Granit, phía sau là một bức tường gắn dòng chữ “Hãy giữ vững chí khí chiến đấu” bằng đồng trên nền đỏ. Trên phần mộ đồng chí Trần Phú là Phần mộ hai cụ thân sinh: Thân mẫu là bà Hoàng Thị Cát và thân phụ là ông Trần Văn Phổ. Phía bên phải là phần mộ đồng chí Trần Ngọc Danh (1908 – 1952), người con thứ 8 trong gia đình và là người em đồng chí Trần Phú. Ông Trần Ngọc Danh nguyên là Uỷ viên trung ương Đảng, đại biểu Quốc hội khoá I, là thành viên tham dự Hội nghị Phôngtennơblô năm1946 và là Trưởng phái đoàn đại diện của Chính phủ Việt Nam tại Pháp từ năm 1946 – 1954.
Hàng nămH, khu di tích lưu niệm đồng chí Trần Phú đã đón hàng vạn lượt khách tham quan trong nước và quốc tế về đây dâng hương tưởng niệm và tri ân vị anh hùng dân tộc, người chiến sỹ Cộng sản lỗi lạc, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Trong đó có nhiều đồng chí cán bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng và nhà nước.
Lê Doãn Thắng (Ban quản lý di tích Trần Phú)
VI. Hiện vật tại di tích:
Bảng thống kê hiện vật đền hồ nam
STT |
Tên gọi
|
Chất liệu |
Số lượng |
GHI CHÚ |
1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. 10. 11. 12. 13. 14. 15.
|
Bát hương Cờ phật Hạc Cọc nến Lọ hoa Sắc phong Hòm đựng sắc phong Mâm cổ bồng Kiệu bát cống Đèn thờ Hoá trầm Tượng phật Bàn thờ ảnh Bác Hồ Tế phả làng Phúc Thái |
Đồng§, sứ Vải Sứ Đồng Sứ, đất nung Giấy Gỗ Gỗ Gỗ Nhựa Đồng Sứ, xi măng Gỗ Giấy Giấy
Tổng cộng:
|
03 cái 02 lá 01 đôi 02 đôi 17 cái 06 sắc 03 cái 01 bộ 01 cái 03 cái 02 bộ 12 bức 04 cái 01 ảnh 01 cuốn
59 hiện vật |
1 đồng, 2 sứ
11 sứ, 6 đất nung
1 mâm 6 quả
9 sứ, 3 xi măng
|
VII. Giá trị lịch sử, văn hoá - nghệ thuật: